PHẬT THUYẾT ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC KINH - Trang 172

172

無量壽經 - 漢字

&

越語

N

ẾU MUỐN PHẬT PHÁP HƯNG, DUY CHỈ CÓ TĂNG KHEN TĂNG!

ĐỌC TỤNG KINH VÔ LƯỢNG THỌ CHÍNH LÀ TU GIỚI - ĐỊNH - HUỆ, NHẤT

ĐỊNH KHÔNG ĐƯỢC CẦU GIẢI NGHĨA

M

ỗi lần chúng ta đọc kinh chính là một lần tu Tam-vô-lậu-học Giới - Định

- Hu

ệ. Nếu chúng ta đọc kinh theo kiểu vừa đọc vừa suy nghĩ ý nghĩa của kinh văn

thì Tam-vô-l

ậu-học Giới - Định - Huệ đều không có. Vì sao? Vì chúng ta vừa đọc

kinh v

ừa suy nghĩ chính là đang khởi vọng tưởng; kết quả là không có Giới, không

có Định, cũng không có Huệ. Cho nên,

chúng ta đọc kinh thì cần phải thật thà,

chân thành, cung kính mà

đọc. Nhất định không được suy nghĩ “đoạn này có

nghĩa là gì vậy?”, không được khởi vọng tưởng như thế.

N

ếu trong lúc chúng ta đọc kinh mà ý nghĩa đột nhiên xuất hiện thì đây

không ph

ải là do chúng ta nghĩ ra, không phải do chúng ta suy tư ra, không hề

liên quan đến việc này, đó là có chỗ tương ưng, chúng ta đã có chỗ ngộ. Việc ngộ
này gi

ống như chúng ta có rất nhiều bóng đèn nhỏ, khi một bóng đèn nhỏ đột nhiên

Đọc tụng kinh điển hay nghe giảng kinh phải tuân thủ theo 3 nguyên

t

ắc mà Mã Minh Bồ-tát dạy trong Đại Thừa Khởi Tín Luận:

Thứ nhất là không chấp trước tướng ngôn thuyết: Nghe giảng kinh

không được chấp vào lời nói vì lời nói chỉ là phương tiện để truyền đạt nghĩa

lý, ph

ải nghe được nghĩa lý chứa bên trong lời nói. Đọc kinh điển không được

ch

ấp vào văn tự vì văn tự chỉ là ký hiệu của lời nói.

Thứ hai là không chấp trước tướng danh từ thuật ngữ: Ở trong kinh

Ph

ật có rất nhiều danh từ thuật ngữ, ví dụ như: Vô Sanh Pháp Nhẫn, Tam Bảo,

Ph

ật, Pháp, Tăng,…. đều không được chấp trước. Phật đặt ra danh từ thuật

ng

ữ là để truyền đạt ý nghĩa được dễ dàng thuận lợi; không nên cho là thật.

Thứ ba là không chấp trước tướng tâm duyên: Tâm duyên là vọng văn

sinh nghĩa (vọng tưởng kinh văn để sinh ra ý nghĩa: Tôi thấy điều này. Tôi

nghĩ phải giải thích như thế này. v.v...); đây là đã rơi vào ý thức thứ 6; khi đó,

nh

ững gì học được chỉ là một chút tri thức nhỏ chứ không phải là Trí-huệ.

Ph

ật dạy học trò tu hành để khai mở Trí-huệ chứ không dạy học trò học tri

th

ức. Người học Phật không được nghĩ xem kinh văn có ý nghĩa gì, đây là tâm

phan duyên

. Kinh văn không có ý nghĩa thì mới có chỗ ngộ. Nếu người học

Ph

ật đi nghĩ tưởng ra ý nghĩa của kinh văn thì đây không phải là ý của Phật

nói trong kinh mà là ý c

ủa chính người đó. Chư Phật, Bồ-tát, A-la-hán đều

không có ý.

(Trích l

ục từ bài giảng Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa - Ân sư chủ giảng)

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.