186
無量壽經 - 漢字
&
越語
N
ẾU MUỐN PHẬT PHÁP HƯNG, DUY CHỈ CÓ TĂNG KHEN TĂNG!
-
Nhĩ căn lắng nghe âm thanh Phật hiệu thật rõ ràng rành mạch thì vọng tưởng tự
nhiên không th
ể sanh khởi được; tâm thanh t
ịnh thì tự nhiên nhận biết được thứ
t
ự câu Phật hiệu từ câu 1 đến câu 10. Nghĩa là, tâm thanh tịnh giống như một hồ
nước trong lặng, sẽ có khả năng quán chiếu rõ ràng từng câu Phật hiệu; cho nên, có
th
ể nói
“tâm biết” chính là Định - Huệ đẳng trì. Định - Huệ đẳng trì chính là
Thi
ền-định, nếu chỉ có Định mà không có Huệ thì không có năng lực quán chiếu.
M
ặt nước bị xao động thì mất đi năng lực quán chiếu; nghĩa là, nếu tâm không còn
thanh t
ịnh thì không có cách gì nhận biết thứ tự câu Phật hiệu từ câu 1 đến câu 10.
Tuy nhiên, kh
ởi vọng tưởng là một loại tập khí rất nặng đã huân tập từ vô lượng
vô biên ki
ếp đến nay, không dễ gì trong một thời gian ngắn mà có thể hàng phục
được loại tập khí này khiến vọng tưởng không khởi lên nữa. Cho nên, một số
người niệm đến khoảng câu Phật hiệu thứ 6 thì vọng tưởng khởi lên, tâm ô nhiễm liền
quên m
ất thứ tự câu Phật hiệu đang niệm là câu thứ mấy; đối với những người này
thì chia 10 câu Ph
ật hiệu thành 2 đoạn để ghi nhớ. Một số người chỉ niệm đến khoảng
câu Ph
ật hiệu thứ 4 đã khởi vọng tưởng thì cần phải chia làm 3 đoạn để ghi nhớ.
Chú thích:
* Trong b
ản dịch bài Pháp Thập Niệm Ký Số, phần trong dấu “[…]” là nguyên
văn lá thư có mở ngoặc và đóng ngoặc, phần trong dấu “(…)” là phần diễn nghĩa
thêm.
Lá thư thứ 4 mà Đại sư Ấn Quang gửi cư sĩ Cao Thiệu Lân viết bằng Văn
Ngôn, là c
ổ văn Trung Hoa. Văn Ngôn là văn viết, thường chỉ có ý mà không có lời,
khác hoàn toàn v
ới văn nói Bạch Thoại. Một bài văn viết bằng Văn Ngôn nếu đem
cho 10 người dịch ra Bạch Thoại thì nhận được 10 bản dịch đều không giống nhau.
Cho nên, n
ếu muốn dịch nội dung Pháp Thập Niệm Ký Số được viết trong lá thư này
ra ti
ếng Việt hoàn toàn chính xác, không bị sai sót nghĩa lý thì phải hiểu thông suốt
pháp ni
ệm Phật này. Điều may mắn là cư sĩ Hồ Tiểu Lâm đã giảng giải lá thư ấy
(gi
ảng giải Pháp Thập Niệm Ký Số) rất tường tận vào tháng 4 năm 2011 tại Hiệp Hội
Giáo D
ục Phật-đà Hồng Kông. Chúng tôi đã căn cứ vào nội dung bài giảng của cư sĩ
H
ồ Tiểu Lâm để dịch theo cách diễn dịch vì hàm nghĩa trong lá thư này quá sâu quá
r
ộng (Tổ sư Ấn Quang còn vận dụng cả văn trong Chu Dịch). Nếu dịch bó buộc theo
câu ch
ữ như cách dịch thông thường thì không thể nào làm sáng tỏ hết ý nghĩa.⁂
* Pháp Th
ần Triều Thập Niệm do Pháp sư Từ Vân Quán Đảnh đời Tống vì vương
công đại thần quá bận chính sự không có thời gian niệm Phật mà lập ra. Pháp này
hành trì vào sáng s
ớm, hít một hơi sâu rồi niệm Phật hiệu ra tiếng liên tục cho đến
khi h
ết hơi sẽ tính là 1 niệm. Niệm 10 hơi như vậy thì ngừng lại. V
ì dùng hơi thở để
nhi
ếp tâm nên vọng niệm không có cơ hội xen vào tâm, tâm được thanh tịnh khi
ni
ệm Phật. Do đó, dù chỉ niệm Phật được 10 niệm thôi nhưng công đức niệm
Ph
ật rất lớn. Nhược điểm: niệm hơn 10 niệm (lâu ngày) sẽ tổn khí sanh bệnh.⁂