34
無量壽經 - 漢字
&
越語
N
ẾU MUỐN PHẬT PHÁP HƯNG, DUY CHỈ CÓ TĂNG KHEN TĂNG!
sao hi
ểu nghĩa được?”. Ngài đáp: “Di
ệu lý của chư Phật chẳng dính dáng tới văn
t
ự!”. Ngài giảng Kinh Niết Bàn cho bà nghe thì bà liền khai ngộ. Bà nói với các bậc
trưởng lão trong thôn rằng: “Đây là người có Đạo, rất nên cúng dường”. Mọi người
b
ảo nhau sửa chữa lại ngôi chùa cổ đã hư nát và mời Ngài ở đó. Ngài ở đó được
kho
ảng 9 tháng thì có bọn ác nhân tìm đến, Ngài phải trốn vào rừng núi; lại bị bọn ấy
đốt cháy rừng núi; Ngài phải ẩn thân nơi kẽ đá để thoát nạn; nay còn dấu vết ngồi
trên đá và dấu lằn áo trên đá, người đời gọi đá ấy là “đá tị nạn”.
4. Tâm t
ừ bi không sát sanh. Ngài nhớ lời Ngũ tổ dặn nên đến ẩn nương nơi huyện
T
ứ Hội. Ở đây, Ngài gặp và ở chung với những người thợ săn. Họ thường bảo Ngài
coi gi
ữ lưới săn. Khi Ngài th
ấy động vật lọt vào lưới thì đem thả ra hết. Ăn cơm
v
ới thợ săn thì Ngài ch
ỉ ăn rau trong nồi nấu thịt, có người hỏi thì Ngài nói mình
ch
ỉ ăn rau. Ngài ở trong phường thợ săn 15 năm, chịu đựng rất nhiều khổ nhục.
5. H
ộ trì Chánh Pháp. 15 năm trôi qua, vì mọi người đã quên chuyện Ngũ tổ trao y
bát cho Ngài nên Ngài mu
ốn hoằng pháp lợi sanh. Ngài đi đến chùa Pháp Tánh tại
Qu
ảng Châu. Hôm ấy, Pháp sư Ấn Tông đang giảng Kinh Niết Bàn thì một luồng gió
m
ạnh thổi động lá phướn, mọi người đều thấy, một vị Tăng nói: “Gió động!”. Một vị
Tăng khác nói: “Phướn động!”. Hai vị Tăng nói qua nói lại chẳng dứt. Thấy thế, Ngài
bước đến nói rằng: “Không phải gió động, cũng chẳng phải phướn động, ấy là tâm
c
ủa quý thầy động mà thôi!”. Mọi người nghe nói đều kinh ngạc, Pháp sư Ấn Tông
th
ấy vậy liền mời Ngài ngồi lên giảng tòa và hỏi những nghĩa lý huyền ảo, đều được
Ngài tr
ả lời trôi chảy với ngôn ngữ giản dị, nghĩa lý thích hợp không lấy từ văn tự.
Pháp s
ư Ấn Tông nói: “Hành giả chẳng phải là người thường, đã lâu tôi có nghe nói
y bát c
ủa Ngũ tổ đã truyền cho Lục tổ về phương nam, có phải là về tay hành giả
không?
”. Ngài trả lời:
“Tôi không dám!” (thái độ của Ngài rất khiêm hạ). Pháp sư
Ấn Tông liền làm lễ trước Ngài và xin Ngài bày y bát ra để đại chúng được chiêm
bái. Sau khi th
ấy y bát rồi, Ấn Tông lại hỏi: “Đức Huỳnh Mai sau khi phó chúc rồi,
Ngài truy
ền thọ như thế nào?”. Ngài đáp: “Ngũ tổ không truyền thọ chi cả, chỉ có
lu
ận môn thấy Tánh thành Phật, Ngài chẳng luận pháp Thiền-định và pháp giải thoát”.
Ấn Tông hỏi: “Sao chẳng luận pháp Thiền-định và pháp giải thoát?”. Ngài đáp: “Vì
hai pháp
ấy chẳng phải là Phật pháp, Ph
ật pháp là pháp không hai!”. Ấn Tông nói:
“Phật pháp là pháp chẳng hai nghĩa là sao?”. Ngài đáp: “Thầy giảng Kinh Niết Bàn
đã hiểu rõ Ph
ật Tánh tức pháp chẳng hai của Phật pháp. Ví dụ như Cao Quý Đức
Vương Bồ-tát thưa với Phật rằng: ‘Người phạm bốn điều trọng cấm (dâm dục, trộm
cướp, giết hại sanh mạng và nói bốn điều vọng ngữ), làm năm điều đại nghịch (giết
cha, gi
ết mẹ, giết A-la-hán, phá hoại chúng Tăng hòa hợp, khởi ác ý mong làm hại
Ph
ật) thì thiện căn và Phật Tánh có bị đoạn diệt chăng?’. Phật đáp rằng:
‘Thiện căn
có hai th
ứ: một là thường, hai là vô thường; còn Phật Tánh chẳng phải thường,
ch
ẳng phải vô thường cho nên Phật Tánh không đoạn diệt, ấy gọi là pháp chẳng
hai”. Ấn Tông nghe Ngài giảng thì vui mừng chắp tay thưa rằng: “Sự giảng kinh của
tôi như gạch bể ngói vỡ, sự luận nghĩa của Ngài cũng như vàng ròng”.