nguồn từ lịch sử có ý thức và vô sản thể hiện quá trình ý thức này. Lukács
nhận định, giai cấp vô sản như Marx đã nói chỉ việc giải phóng những
thành tố của xã hội mới đã có mầm mống từ sự tan rã của xã hội tư bản,
mặt khác phải đòi hỏi một thành tố mới, đó là ý thức của giai cấp vô sản
phải trở thành hành động. Đối với giai cấp tư sản, thế giới vật hóa xuất hiện
như thế vĩnh viễn, còn đối với giai cấp vô sản, vật hóa không là một hạn
chế nhất định mà chỉ có tính lịch sử, với mối quan tâm là làm thế nào giải
phóng chính nó. Cho nên sự hiện hữu xã hội của giai cấp vô sản hàm chứa
khả năng khách quan siêu vượt lên trên vật hóa. Biến ý thức thành hành
động một khi ý thức ở đây không phải là nhận thức về một khách thể dối
lập mà là tự thức “đem lại một sự biến đổi cấu trúc khách quan trong đối
tượng nhận thức” (vollbringt eine gegensatandlische struktive Veranderung
am Objekt ihrer Erkenntnis). Lukács nhấn mạnh, chỉ có ý thức giai cấp thực
tiễn của vô sản mới có khả năng biến đổi mọi sự:
“Bất kỳ biến đổi nào cũng chỉ có thể là do hành động tự do của chính vô
sản”(Diese Verwandlung selbst kann aber nur die - freie - Tat des
Proletariats selbst sein),
Lý luận biện chứng về ý thức giai cấp của Lukács đem lại điều gì mới
cho chủ nghĩa Mác ? Như đã nói đến ở phần trên, khi phân tích hiện tượng
vật hóa Lukács đã làm nổi bật một khái niệm cơ bản của chủ nghĩa Mác về
tha hóa, ngụy thức và khái niệm tổng thể là cơ sở của chủ nghĩa duy vật
lịch sử. Mặt khác ông đã phân tích những nét cơ bản trong lý luận về giai
cấp xã hội mà Marx chưa triển khai trên bình diện hữu thể luận. Lukács xác
định: giai cấp trở thành cả chủ thể lẫn đối tượng của nhận thức và trong
đường lối đó đã nắm được lý luận trực tiếp và chính đáng trong quá trình
cách mạng của xã hội. Lukács cũng phê phán Engels triệt để trong bài Chủ
nghĩa Mác chính thống là gì? khi chỉ ra là Engels đã không nhìn ra mối
quan hệ biện chứng giữa chủ thể và khách thể trong quá trình lịch sử. Chính
vì thế Engels đã sai lầm khi khai triển phương pháp biện chứng áp dụng
vào lãnh vực tự nhiên, trong khi thực ra những thành tố cốt lõi của phương
pháp biện chứng không có được từ nhận thức của chúng ta về tự nhiên (in
der Naturerkenntnis nicht vorhanden sind). Do đó có sự khác biệt cơ bản