với tự nhiên và xã hội. Cả hai hình ảnh về Marx đều phiến diện. Một lý
luận về tha hóa trong học thuyết Mác phải gắn liền với hoàn cảnh lịch sử cụ
thể, đó là lý do Marx đã tốn nhiều năm vào việc nghiên cứu kinh tế chính
trị học, với một đối tượng cụ thể là vấn đề “tư bản” và quá trình sản xuất
của xã hội tư bản. Mặt khác, quan niệm đó đã phủ nhận mối quan hệ gắn bó
nhất quán giữa những tác phẩm triết học thời trẻ với những tác phẩm kinh
tế chính trị thời trưởng thành của Marx.
Ngày nay, mặc dầu toàn bộ sách vở của Marx chưa được tập đại thành song
những tác phẫm xuất bản vào thế kỷ 20 đã chỉnh đốn những lý giải thiên
lệch về chủ nghĩa Mác.
Cũng nhờ đó, nó soi sáng phần nào những nguyên tắc giáo điều thống trị
trong khối cộng sản từ nhiều thập niên qua, cũng như mở đường hứa hẹn
cho một nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa Mác có thể dẫn đến chủ nghĩa hư vô như K. Axelos quan niệm,
nhưng tư tưởng của Marx không phải khởi từ một viễn tượng hư vô chủ
nghĩa. Chủ nghĩa Mác gắn liền với quyền bính, nó suy thoái khi toàn bộ hệ
thống cộng sản sụp đổ, song tư tưởng Mác vẫn còn giá trị viễn tượng hứa
hẹn trên bình diện nhân văn. Đó là vị thế duy nhất của Marx trong lịch sử
văn hóa nhân loại.
Những Đóng Góp của Engels:
Vị trí của Engels trong việc hình thành chủ nghĩa Mác thật quan trọng và
phức tạp:
- Engels là người cộng sự của Marx trong việc hợp tác trí thức viết ra
những tác phẩm nổi tiếng của chủ nghĩa Mác như Hệ Tư Tưởng Đức; Gia
đình thần thánh; Tuyên Ngôn của Đảng Cộng Sản.
- Engels là người đồng chí tận tụy sát cánh với Marx trong cuộc sống cũng
như hoạt động của phong trào công nhân quốc tế.
- Engels là người có công quảng bá những luận điểm của chủ nghĩa Mác và
có ảnh hưởng lớn rộng trong tư tưởng, chiến lược và sách lược cho những
lý luận của chủ nghĩa cộng sản hiện đại. Engels chính là người sáng lập ra
những “chủ nghĩa duy vật lịch sử” và “chủ nghĩa duy vật biện chứng,” là cơ
sở của những chủ nghĩa Mác hiện đại (chủ nghĩa Lênin, Trốtkít, Stalin và