Khi đọc Hegel, Lenin đã khẳng định:
"Không thể nắm vững hoàn toàn tác phẩm Tư bản của Marx, đặc biệt là
chương thứ nhất nếu người ta không nghiên cứu và hiểu thấu toàn bộ tác
phẩm Khoa Luận Lý Học (Wissenschaft der Logik) của Hegel. Thực thế,
không một người mác-xít nào từ nửa thế kỷ nay hiểu thấu được Marx.”
Theo Lenin, Marx đã tiếp thu và phát triển mặt cách mạng này của triết học
Hegel và áp dụng phương pháp biện chứng của Hegel trong hình thái thuần
lý vào khoa kinh tế chính trị. Lenin đã chỉ ra phương pháp biện chứng đó
như sau: "Trong Das Kapital, Marx đã sử dụng khoa luận lý, phép biện
chứng và nhận thức luận của chủ nghĩa duy vật như một khoa học duy nhất,
rút ra mọi điều giá trị từ Hegel và phát triển hơn lên.”
Trong lời bạt của ấn bản tiếng Đức lần thứ hai, Marx đã xác nhận mối quan
hệ về mặt phương pháp biện chứng của ông đối với Hegel: "Phương pháp
biện chứng của tôi không những khác với phương pháp biện chứng của
Hegel mà nó còn đối lập trực tiếp. Đối với tôi lý tưởng không là gì khác
hơn thế giới vật chất phản ánh bởi tinh thần của con người và diễn dịch
thành những hình thái tư duy. ... Vì thế tôi công khai thú nhận tôi là học trò
của nhà tư tưởng vĩ đại này, và hiển nhiên đây đó, trong chương sách luận
về giá trị, tôi đã làm dáng với những mô thức diễn tả đặc biệt của Hegel.”
Lenin đã trung thành với nhận thức này khi trình bày học thuyết kinh tế của
Marx trên hai vấn đề: giá trị và giá trị thặng dư. Ông dẫn lời Marx: "Mục
tiêu tột cùng của công trình này là phơi trần ra quy luật vận động kinh tế
của xã hội hiện đại" - vì trong xã hội tư bản, sản xuất ra hàng hóa chiếm ưu
thế, do đó Marx khởi sự phân tích từ việc phân tích hàng hóa trong chương
thứ nhất.
Cũng trong lời bạt nói trên, Marx giải thích rõ: Trong hình thái hợp lý của
nó, phép biện chứng bao gồm cả nhận thức tích cực về những sự vật hiện
hữu đồng thời nhận thức cả sự phủ định, sự phá hủy tất yếu những mặt hiện
hữu này (In ihrer rationellen Gestalt... (sie) in dem positiven Verstandnis
des Bestehenden zugleich auch das Verstandnis seiner Negation, seines
notwendigen Untergangs einschliesst).
Trong Bút ký triết học, Lenin mô tả mặt phủ định biện chứng tích cực này -