ở miền núi rừng Tây Bắc. Khách vào quán, nhiều người chụm đầu, nhỏ to
trò chuyện, họ phán đoán thế cuộc sẽ có nhiều diễn biến đổi thay.
An mơ hồ nhận ra cảnh ngộ bị lừa dối của mình. Đề phòng An có thể trốn
khỏi cửa hàng, bà chủ rào đón răn đe, mày chưa đến tuổi làm thẻ căn cước
(chứng minh thư), đừng dại dột bỏ cửa hàng mà ra đi, sẽ bị Sở Cẩm bắt
tống giam, tao chẳng cứu nổi đâu.
Hàng ngày, nhìn học sinh cùng trang lứa với mình cắp sách đến trường, An
tủi thân. Sự học kể cũng lạ. Người có năng lực và siêng năng học hành thì
thèm khát đến trường như đói thèm ăn, khát thèm uống. Kẻ lười biếng tối
dạ thì coi việc hàng ngày phải cắp sách đến trường là cực hình đầy ải.
Có An làm bồi bàn, bà chủ quán Bar rảnh rỗi thời gian ngồi tiếp khách.
Khách hàng là người Pháp là người Việt giàu có ở thành phố này. Đôi khi,
họ quấn nhau lên tầng hai của nhà hàng vui chăn gối. Bà chủ nghiêm sắc
mặt, dằn giọng đe nẹt An, là thằng ở, không được bép xép với ông bác của
mày, tao cắt lưỡi. Chuyện quen ai, quan hệ cùng ai là việc của tao. Bác mày
cũng chỉ là một trong số hàng trăm thằng đàn ông mà tao quen biết.
Dù bà chủ không căn dặn, An cũng chẳng bao giờ muốn trò chuyện với ông
Thuận. Thấy bóng ông, anh lảng tránh, trông thấy ông, cảm giác tủi nhục
giận hờn dâng lên nghèn nghẹn trong ngực. Người lừa dối lại chính là bác
ư? Sự thật là thế. Ông Thuận né tránh nhìn trực diện vào mắt An như muốn
né tránh nhìn thẳng vào sự thật, muốn che giấu điều khuất tất. Nụ cười tình
nịnh bợ, lời tán tỉnh xun xoe ông dành cho bà chủ quán. Ánh mắt lẳng lơ
đàng điếm của ông, anh thấy ghê tởm đáng ghét quá. Cái cảm tình kính
trọng, biết ơn ngày nào đối với ông nay đã tắt lịm, được thế chỗ bằng nỗi
giận hờn.
An không phải một lần được chứng kiến cái âm thanh nực cười dội từ tầng
hai xuống tầng một. Thằng con nhỏ ba tuổi của bà chủ ngỡ tưởng ông