chắc chắn không tránh được bệnh sốt rét, nay sau buổi trèo non, vượt suối đã
tác hại ông ? Nhưng ta cũng biết : dầu đau ốm gì, cái miệng ông đâu có chịu
đau ! Ông vẫn nói bằng miệng, viết bằng tay. Và đây là một bàn Cờ Tướng
để ông có cơ hội trình bày – hình như thế – thực trạng của Triều đình Việt
Nam (Nam triều) thưở ấy :
Một ông tướng lác đứng trong cung,
Sĩ tượng khoanh tay chẳng vẫy vùng.
Pháo giở hai cây nằm dưới góc,
Tốt đâu năm chú đứng bên sông.
Lờ khờ cặp ngựa đi tam cố,
Lạc xạc đôi xe chạy tứ tung.
Đương cuộc ai xui mê đến thế,
Họa là tiên xuống giúp cho cùng.
Đó, là những lý lẽ để phải Duy Tân : Nếu không gấp tự cường thì lực
lượng kia phải chỉ còn biết vĩnh kiếp đầu hàng, chịu nhục trừ phi… tiên
xuống giúp. Nhưng tiên làm gì có trong ảnh « cảm tác » này :
Gió, tố, dông, mưa đổ lộn phèo,
Trời già khi nở thắt khi eo.
Giảm mùi trung hiếu nên cay đắng,
Dở túi văn chương đã mốc meo.
Bọn điếm lăng xăng lo chợ cháy,
Con hoang lơ lững khóc cha nghèo.
Hai câu luận này Phan châu Trinh rất đắc ý. Trong một số báo Tiếng
Dân có đăng bài « Lối học khoa cử »
Huỳnh thúc Kháng có viết :
« Cụ Tây Hồ (…) bình sanh phản đối Tống nho, và Tây học lại có con
mắt đặc biệt phát kiến nhiều chỗ tinh túy (chữ « Dân quyền » ở xứ ta cụ hô
hào trước nhất) trong một bài thi cảm tác tả cái hiện tượng nước ta trong
khoảng quá độ này có câu :
Bợm điếm lăng xăng lo chợ cháy,
Con hoang lơ lửng khóc cha nghèo.