một khu vườn, bắt dân tới làm ruộng công, khiến dân phẫn nộ, hợp với
những phẫn uất khác, gây nên cuộc bức tử viên đề đốc của Triều đình năm
1908.
*
Ở Quảng-Nam-ngoài, khu vực Trần quí Cáp không có những nguồn lợi
lớn lao như thế mà chỉ trông vào ngũ cốc. Trong Tiểu sử Trần quí Cáp, ông
Trần hiến Sách có ghi : « Tháng tư năm Bính Ngọ 1906, tiên sinh (TQC)
cùng Bang Kỳ Lam Nguyễn Tán, các ông cử Phan thúc Duyên, Lê bá Trinh,
Hồ thanh Vân và tôi lên nguồn núi Dùi Chiêng tìm Sở rẫy Cờ Vĩ để khẩn
hoang. Thấy đất linh láng màu mỡ tốt, bèn về mộ phu lên làm. Lúc ấy dân
chưa nhận thức, người sợ nước độc, kẻ sợ xa nhà nên không ai chịu đi. Tiên
sinh phải ra thuê một sở ruộng làng Cẩm Nê chỗ giáp giới huyện Hòa Vang
với phủ Điện Bàn, diện tích ước hai mươi mẫu để lập nông hội. Tiên sinh
đứng ra tổ chức và trông coi sự làm ruộng ấy, mục đích để lấy hoa lợi tiếp
tế cho anh em du học » (trang 13)
Tuy nói dân không chịu đi làm, nhưng theo lời ông Nguyễn xuân Thái
(nguyên quản lý báo Tiếng Dân) thì cũng đã canh tác được một thời gian, có
lẽ với những người nhà của các nhân sĩ nói trên.
Theo ông Thái thì : Cờ Vĩ là một khu vực thuộc Sé (Tý, Sé, nơi năm
1904, các ông Phan châu Trinh, Trần quí Cáp đi tuyên truyền cổ động Duy
Tân). Ai có đi ngược sông Thu Bồn, qua các khu vực Phường Rạnh, Dùi
Chiêng rồi mới tới Tý, Sé, xa hơn khu vực đóng Tân tỉnh của Nguyễn duy
Hiệu thời Cần Vương một buổi đường. Nơi đó, gần như hoang địa, đất rất
tốt, lại bằng phẳng, thuận lợi cho việc gieo vải, trồng trọt. Đất đó trồng bắp
thì có lẽ ít nơi nào sánh kịp. Ta cũng nên nhớ vùng ấy có tiếng là khu vực
sản xuất bắp. Phương tiện chuyên chở thì chỉ có gánh. Dân phu phải gánh
hoa lợi từ nhàn điền ra đến khe Sé rồi mới xuống ghe. Công việc có thể tiến
hành tốt đẹp, nhưng khả năng chịu đựng của sĩ phu chỉ có hạn, dù họ đều là
con nhà nông và ít nhiều đều có tham gia canh tác. Huống chi ban đêm còn
nghe tiếng hổ rống, lại thêm gió núi vượt qua khoảng rộng lạnh lẽo tê tái,
thêm cảnh cô độc giữa chỗ hoang địa làm sao khỏi ngã lòng. Nhưng kinh