ĐÔNG KINH NGHĨA THỤC HAY PHONG
TRÀO DUY TÂN MIỀN BẮC
BẮC PHẦN, qua nhiều thế kỷ đã mất một ưu thế chiến lược do đó mất
luôn ưu thế chính trị. Và từ khi bị lực lượng Trung Hoa liên tiếp xâm lăng,
trước con quái vật khổng lồ, Bắc phần nơi nào cũng là cửa ngỏ nó đặt chân
vào dễ dàng. Những khu vực núi non hiểm trở dễ dấu quân, nuôi sức, tính kế
lâu dài thì lại nằm chính ở biên giới của nó, chịu làm sao nổi sức tràn lấn của
nó. Do đó, từ Thanh Hóa trở vào trong biến thành một cơ sở kháng chiến
tuyệt hảo cho Trần, cho Lê cả sau này cho Tây Sơn. Vào những thời kỳ triều
đình còn đủ khả năng thì lui về đó chuẩn bị. Khi triều đình bất lực, dân
chúng địa phương tự động chiến đấu để chế ngự lực lượng địch, chờ đợi khi
nuôi quân, luyện mã đủ sức sẽ đổ ra diệt địch. Vậy miền trong, từ Thuận
Hóa, Quảng Nam trở vào được mở rộng ra, ngoài kế mưu sinh, chính còn vì
cái địa thế hiểm hóc và có giá trị chiến lược trọng yếu của nó.
Các bậc anh hùng khi dấy lên ở Thanh Nghệ Tĩnh hẳn nhiên phải lấy
người địa phương làm tâm phúc, vào các vai trò then chốt vì những sự thuận
lợi của điều kiện và hoàn cảnh. Do đó miền Thanh Nghệ Tĩnh biến thành
khu vực cứu khốn, phò nguy cho Bắc Hà và là nơi đào tạo lắm bậc anh
hùng, hào kiệt. Chế độ phong kiến thường rất cục bộ. Dưới thời Lê Trịnh, họ
không chỉ dùng quan, dùng quân mà còn dùng lính Tam phủ làm ưu binh rồi
hóa ra kiêu binh. Thời kỳ này gây cho sĩ phu miền Bắc một mặc cảm và họ
tự thấy mình đóng một vai phụ « bên cạnh cuộc đời » của chính quyền
đương nhiệm. Do đó, họ không tích cực với ý thức chủ nhân ông đất nước,
có đủ quyền lực và cần khai thác óc sáng tạo và anh hùng tính của mình đến
mức tối đa như đa số nhân vật Thanh Nghệ Tĩnh. Tới khi triều Nguyễn bành
trướng thì tình trạng còn tệ hại hơn nhiều. Không chỉ đóng vai trò phụ, nhân
sĩ Bắc Hà còn bị nghi ngờ có nhị tâm. Ta đừng nói dưới thời Gia Long xa
xôi, chưa quen dùng nhân sĩ Bắc, mà đến thời Tự Đức, khi Pháp phô trương
sức mạnh vũ bão của họ thì những nhân vật giữ các địa vị then chốt của