Phần Hán văn dành cho các ông Dương bác Trạc, Hoàng tăng Bí,
Nguyễn hải Thần, Nguyễn Quyền, Lương trúc Đàm.
Phần tân học quốc ngữ, Pháp văn v.v… giao cho các giáo sư trẻ có
tiếng tăm (tôi sẽ nói sau).
Ngoài ra, trường có tổ chức Tu thư soạn sách (Phạm trung Trực, Dương
bá Trạc, Lương trúc Đàm, Phương Sơn) ngành dịch (Nguyễn hữu Tiến,
Nguyễn đôn Phục, Hoàng tích phụng) Những nhân vật này, nhờ luyện cây
bút ở Đông Kinh Nghĩa Thục mà về sau nổi tiếng một thời trên văn đàn
(Dương bá Trạc, Nguyễn hữu Tiến…)
Ngoài ra, còn có ban khắc chữ in bài học để phát cho học sinh và đồng
chí.
c) Nhưng điểm vang danh lớn nhất không phải chỉ vì các điều nêu ở
trên mà chỉ vì Đông Kinh Nghĩa Thục có nhiều nhà tân học xuất sắc, bỏ xa
các trường học Duy Tân ở Quảng Nam. Đó là một nhu cầu mà một trường
mới đòi hỏi phải cung ứng và Hà Nội đã cung ứng được. Đó là chỉ vì Pháp
đã lập trường thông ngôn ở Hà nội, và một số học trò ở trường này ra dạy thì
hẳn là ăn đứt thiên hạ rồi. Huống chi những vị tân học ấy, như sau nầy sẽ
chứng minh, đều là những nhân vật chắc chắn vào thời Đông Kinh Nghĩa
Thục đã tỏ ra xuất sắc : Nguyễn văn Vĩnh, Phạm duy Tốn, Nguyễn bá Học,
Trần đình Đức, Bùi đình Tá, Phạm đình Đối. Không chỉ thông thạo tân học
chữ nghĩa, họ còn thông thạo những môn mà thời ấy chưa ai biết tới để dạy :
địa lý, toán học ; Ông Trần đình Đức vẽ tấm bản đồ Việt Nam và ông Phạm
đình Đối bắt đầu giảng kỷ hà học (hình học).
d) Đông Kinh Nghĩa Thục có những lý do riêng để nổi tiếng đã đành,
nhưng còn vì nó tọa lạc ở giữa Đô Thành Hà nội, nơi sau này văn học phát
triển mạnh nên tự nhiên được nhiều người biết tiếng và nhắc nhở, viết bài,
viết sách. Gần đây có cả những quyển sách trình bày riêng về lịch sử của nó
khiến địa vị nó càng thêm rạng rỡ, gần như muốn tách rời hẳn Phong Trào
Duy Tân mà ít người muốn nhắc hay chỉ nhắc lấy chừng. Sự thật, chính vì
lối làm việc cục bộ và thiếu sót đã làm giảm giá trị rất nhiều cho Phong Trào