toang, có mấy người lính tập dẫn 5,6 người tù vào, có 2 người dân võng 1
người đau vào, cùng giam vào phòng tôi. Hỏi thì họ nói bị đày đi Lao Bảo,
gởi giam tạm buổi mai, đợi chiều lên xe hỏa (…)
Sau lính ra, cửa khóa rồi, tôi nhìn thấy người bệnh kia mặt đen như
than, tay chân như ống quyển, hai mắt nhắm khít, không còn là hình dạng
người, hơi thở như sợi tơ, chừng như muốn tắt nghỉ, trong lòng cảm động,
lại gần nhìn kỹ một chặp lâu mới nhận ra, thì không phải người lạ mà chính
là Châu Thơ Đồng tiên sinh ! Mà ốm o gần chết vì đã tuyệt thực trên 20
ngày nay.
Tôi gọi thử : « Châu tiên sanh ! Châu tiên sanh ! Còn nhìn biết tôi là ai
không ? »
Khi ấy Châu quân mở hai mắt, nhìn tôi một chốc lâu rồi nói nhỏ trong
cổ : « Minh viên quân, tôi làm cái dễ, còn anh em gắng gánh lấy cái khó ».
Nói rồi nhắm mắt lại như cây khô vậy.
Hai giờ chiều bữa ấy, Châu quân bị bồng lên võng chở ra hỏa xa cùng
đi với bọn tù kia. Đến Huế thì Châu quân chết trong lao phủ Thừa.
Bị giam trong ngục mà nhịn ăn, từ Thánh cam Địa Ấn Độ về sau, nhiều
nơi bắt chước đã thành việc cơm bữa không lạ gì. Nhưng Châu quân lại
trước Cam Địa và nhất định tuyệt thực đến chết, cao hơn Thánh hùng Cam
địa một bậc nhỉ ! ». (T.T.T.T trang 21, và 22)
Có nhiều câu đối khóc Châu thượng Văn, nhưng chỉ có câu đối sau này
có ý nghĩa hơn hết của Trần cao Vân. Ý nghĩa không chỉ bởi nội dung cao
sâu mà còn bởi dám hẹn hò : « Ngã bất nan xả sanh, nại hà tai Trung Thiên
dịch sơ khai, Dũ lý thất niên tiền vị diễn. Quân nãi năng tựu nghĩa, nan đắc
giả vạn thế kinh độc thủ, Thú dương thiên tải hậu do
văn ».
Huỳnh thúc Kháng dịch : Ta có tiếc sống đâu, ngặt vì dịch Trung thiên
mới mở đầu, Dũ lý bảy năm chưa kịp diễn
. Người hẳn theo nghĩa đấy, khó
nhất kinh muôn đời hay giữ chắc, Thú dương ngàn thuở vẫn còn nghe.