Tây Nam.
Các câu hỏi ông đều giải đáp khúc chiết, rành mạch. Khi đổ tội dân
biến – chống thuế – cho Ông, Ông nói : « Các ngài ngồi lên đầu dân lại ăn
lộc nước mỗi ông một tháng hoặc bốn tháng, năm trăm đồng hoặc hai ba
trăm đồng, dưới nữa cũng một trăm, tám chín chục, bổng ấy không phải là
máu mủ của dân sao ? Thế mà cứ ngồi ăn lịt, không lo vì dân mở đường sinh
kế, toan việc công lợi, để cho nó cùng vô sở xuất, không biết lấy chi nộp
thuế mà rủ nhau đi làm hạ sách đi yêu cầu như thế, ấy là cựu các ngài, các
ngài đã không biết tội thì chớ, lại đổ cho người khác sao ? Các quan giận
lắm, muốn kết án tử hình, quan Tây không chịu (nghe đâu có hội Bảo Trợ
Nhân Quyền bênh vực và cũng có một ông quan Nam không ký tên) mới
giảm đẳng kêu án xử tử phát Côn Lôn ngộ xá bất nguyên (gặp dịp ân xá
không được hưởng)
(G.N.K.N trang IIV)
« Một bữa có người đội và hai người lính vào nhà giam, xem xét xiềng
gông, khóa tay cụ rồi dẫn ra cửa ngục. Cụ định chắc là dẫn đi chém. Theo
lệ, phàm tù trọng tội xử tử dẫn ra cửa Bắc (của An Hòa). Nay lại dẫn ra cửa
Nam. Cụ hỏi thì người đội trả lời : Anh bị đày đi Côn Lôn. Cụ liền khẩu
chiếm bài thi :
Luy luy già tỏa xuất đồ môn,
Khảng khái bi ca thiệt thượng tồn.
Quốc thổ trầm luân, dân tộc tụy,
Nam nhi hà sự phạ Côn Lôn.
Huỳnh thúc Kháng dịch :
Xiềng gông cà kệ biệt Đô môn.
Khẳng khái ngâm nga lưỡi vẫn còn.
Đất nước đắm chìm, nòi giống mỏn,
Thân trai nào sợ cái Côn Lôn ».
(TTTT trang 11, 12)
Bài thơ ấy sau này tù nhân được đọc trong các nhà lao,cảm thấy phấn
khởi lạ lùng ngay trong cảnh bi đát nhất.