đều có nuôi vợ bé, phạm tội đa thê mà không biết xấu hổ. Không những
không có ý định giấu giếm những việc xấu như vậy, mà còn ra vẻ vênh
vang.
Phải nói rằng, một mặt, họ vừa tiến hành công cuộc cải cách theo văn minh
phương Tây, mặt khác, lại học theo những thói quen xấu của Nhật Bản
ngày xưa. Bởi vậy, gác lại chuyện khác, chỉ cần nhìn về việc này thôi đã có
thể thấy họ rơi xuống hạng người thấp hèn.
Thế nhưng, tôi cũng chỉ coi đó là một thói đời, từ xa nhìn lại cũng không có
gì là thù ghét hay có ý định cấm đoán. Đôi khi, tôi có qua lại chỗ họ, nói
chuyện về những việc cần hay cười đùa vui vẻ, nhưng nếu bảo gia nhập vào
hàng ngũ của họ, ăn chung với họ một nồi cơm hay lại gần họ thì tôi cảm
giác như có gì bẩn thỉu, ô uế và thấy khó chịu. Đó cũng là do tôi có thói
quen quá sạch sẽ và thích sự thanh khiết, nói chung là không độ lượng,
nhưng vì là tính cách bẩm sinh, nên không làm thế nào khác được.
Ghét thói bội bạc của những người được gọi là trung thần, nghĩa sĩ
Điều thứ ba là cuối thời Mạc phủ, khi hai phái Tá Mạc, Cần vương chia rõ
ở hai vùng Đông và Tây, vì ghét chế độ đẳng cấp phong kiến từ thời xưa,
nên tôi ghét cả chủ trương tỏa quốc Nhưỡng di. Tôi vốn không tâm phục
khẩu phục Mạc phủ và quả quyết cho rằng, chính phủ đó thà lật nhào còn
hơn. Nói như thế, nhưng khi nhìn vào tình hình của Phái Cần vương, thấy
lý luận về tỏa quốc Nhưỡng di của họ còn mạnh mẽ hơn cả Mạc phủ. Vì
vậy, ngay từ đầu, tôi đã không thể dành tâm trí cho những bè đảng như thế.
Trong khi tôi chỉ im lặng và đứng ngoài quan sát thì xảy ra cuộc bạo động
theo hướng duy tân và Tướng quân Tokugawa trốn đi nay lại trở về. Tức thì
những người của Mạc phủ, tất nhiên là bè đảng Tá Mạc từ các miền lại trở
nên huyên náo, đưa ra hàng trăm thứ lý luận để tranh cãi.