thấy tên sĩ quan.
Hắn đang lấy cánh tay ngắn ngủi chùi bộ ria mép trùm kín cả mồm, và
đang nhún vai quở mắng viên thượng sĩ về chuyện gì đó.
- Ô ng muốn cái gì? - Hắn hỏi Nekhliudov.
- Ở trong toa xe có một người đàn bà đang giở dạ đẻ. Tôi nghĩ nên…
- Ừ thì cứ để nó đẻ đi? Sau đó sẽ hay, - tên sĩ quan vừa nói vừa vung mạnh
hai cánh tay ngắn ngủn, bước lên toa xe của hắn.
Đúng lúc đó thì viên xa trưởng đi qua, tay cầm còi.
Hồi chuông hiệu cuối cùng vang lên, tiếp theo là một tiếng còi. Trên sân ga,
trong đám những người đi tiễn, và trong toa đàn bà, vang lên tiếng khóc lóc
rền rĩ.
Nekhliudov đứng với Taratx trên sân ga nhìn những toa tầu có cửa sổ chấn
song sắt với những chiếc đầu cạo trọc của tù khổ sai, nối tiếp nhau diễn ra
trước mắt.
Rồi toa thứ nhất chở phụ nữ chuyển tới. Chàng nhìn thấy rõ những mái đầu
tựa vào cửa sổ, người thì quấn tóc người bịt khăn vuông; rồi đến toa thứ
hai, từ đó vẫn vọng ra những tiếng rên ri của người đàn bà đang giở dạ đẻ;
cuối cùng đến toa trong đó có Maxlova.
Nàng đứng ở cửa sổ cùng với nhiều người khác và nhìn Nekhliudov, nàng
mỉm cười chua xót.
Chú thích:
(1) Đầu năm 1880 ở Moskva có năm tù nhân chết vì cảm nắng một ngày
trong chuyến đi từ nhà lao Butieki đến ga xe lửa Nizni Novgorod (Chú thích
của tác giả).
(2) Hồi ấy ở nước Nga, tại ga đầu, thường thường 15 hay 20 phút trước khi
tàu chạy có hồi chuông thứ nhất; trước 10 phút có hồi chuông thứ hai;
ngay trước khi tàu chạy có hồi chuông thứ ba. Ở các ga trung tâm thì
khoảng cách giữa hai lần chuông báo có ngắn hơn ít nhiều. (Theo bản dịch
Hoa văn)