hôi thối và, cũng y như thế, giữa hai cửa sổ có tượng Chúa; bên trái cửa là
một thùng phân.
Tất cả tù nhân đều nằm sít cạnh nhau, họ cũng nhổm dậy và đứng thẳng
buông thõng tay, như thế - trừ có ba người: hai người ngồi còn một người
cứ nằm dài, mắt cũng không buồn ngó nhìn những người mới vào. Ba
người nầy cũng ốm. Người Anh nói vẫn những lời đã nói ở phòng bên và
cũng để lại hai cuốn kinh Phúc âm.
Tiếng người kêu, tiếng ầm ĩ xà lim thứ ba vang lại.
Viên giám ngục gõ cửa và quát "Nghiêm". Khi cửa mở, khách vào thăm lại
thấy tù nhân đứng thẳng bên cạnh dãy phản, trừ vài người ốm và hai người
đang đánh nhau; mặt hai người cau có vì tức giận, họ đang túm lấy nhau,
người nắm tóc, người nắm râu. Viên giám ngục phải chạy lại can, họ mới
bỏ nhau ra. Một người mũi bị chảy máu, đương lấy tay áo quệt mũi dài đỏ
lòm, còn người kia gỡ từng đám râu bị đứt ra.
- Cai đâu? - Viên giám ngục nghiêm nghị quát.
Một người phương phi, khỏe mạnh bước ra.
- Thưa quan lớn, tôi không sao dẹp yên chúng nó được? - người cai nói,
khóe mắt cười ranh mãnh.
- Để tao sẽ dẹp chúng nó cho - viên giám ngục nói, mặt cau lại.
- Vì cớ gì họ đánh nhau thế? - người Anh hỏi.
Nekhliudov hỏi lại người cai.
- Vì một chiếc dải xà cạp, - người cai lại cười nói - thằng kia xoáy của
thằng nầy. Thằng nầy đẩy cho nó một cái, rồi thằng kia chẳng chịu kém,
cũng đẩy lại.
Nekhliudov nói lại cho người Anh hiểu.
- Tôi muốn nói với họ mấy lời, - người Anh nói với viên giám ngục,
Nekhliudov dịch lại. Viên giám ngục nói: "Được, ông cứ nói". Người Anh
lấy ra một cuốn kinh Phúc âm bọc da.
- Nhờ ông dịch họ cho đoạn nầy, - ông ta nói với Nekhliudov - Các anh đã
cãi nhau rồi đánh nhau, nhưng Chúa Cơ đốc là người đã chết cho chúng ta,
dạy ta một cách khác để giải quyết sự tranh giành cãi cọ. Ông hỏi xem họ
có biết theo luật của Chúa thì ta phải xử sự thế nào đối với kẻ làm nhục ta