tác của các trợ lí và nhân viên trong phòng thí nghiệm thành thạo hơn họ
nhiều.
Nhà khoa học thực sự – theo định nghĩa của chúng tôi – là một người có
khả năng phát hiện ra manh mối thực sự của các sinh mệnh huyền bí trong
quá trình thực nghiệm, người ấy có khả năng vạch ra cái mặt nạ bí mật đang
ẩn giấu trong quá trình theo đuổi tri thức, người ấy có thể vô cùng vui sướng
lao vào việc tìm kiếm những điều kì diệu của tự nhiên một cách trọn vẹn đến
quên cả bản thân mình. Một nhà khoa học thực sự không nhất thiết cứ phải
biết cách sử dụng hết các loại thiết bị máy móc, mà phải là người hiểu biết
về tự nhiên. Họ nhiệt tình với tự nhiên giống như một người cuồng tín vậy.
Chúng tôi thường miêu tả chân dung một nhà khoa học như thế này: Suốt
ngày trong phòng thí nghiệm, hoàn toàn quên mất tất cả mọi thứ ở ngoài đời,
đôi lúc xuất hiện những hành vi không bình thường, thường xuyên không
quan tâm đến việc ăn mặc của bản thân, bởi họ hoàn toàn không nghĩ đến
bản thân mình. Do việc sử dụng kính hiển vi trong một thời gian dài nên mắt
họ rất kém; vì thực nghiệm khoa học mà họ cố ý để nhiễm vi khuẩn bệnh
phổi; để tìm hiểu con đường truyền bệnh của mầm bệnh, họ đã tự làm cho
mình nhiễm bệnh tả. Các nhà khoa học còn tiếp tục thực nghiệm thuốc thử
mà không màng đến sự nguy hiểm trong khi biết rõ rằng, hỗn hợp hoá học
nào đó có thể nổ tung.
Chính trước những người như vậy, thiên nhiên mới lộ rõ những bí mật của
nó, ban tặng vòng nguyệt quế cho nhà phát minh.
Vì thế, các nhà khoa học có một loại “tinh thần” có thể vượt qua được bất
kì kĩ năng máy móc nào. Chỉ khi tinh thần này vượt qua và điều khiển được
kĩ năng ấy, thì người đó mới đạt tới đỉnh cao của sự nghiệp. Nhà khoa học
không chỉ thông qua việc phát hiện một số hiện tượng tự nhiên mới mẻ nào
đó để làm phong phú thêm cho khoa học, mà còn dùng sự hợp thành của các
tư tưởng Triết học mới để làm cho khoa học phong phú hơn nữa.
Cá nhân tôi cho rằng, chúng ta nên quan tâm chia sẻ loại “tinh thần” ấy
nhiều hơn với đội ngũ giáo viên, chứ không phải chỉ là kĩ thuật thực nghiệm