chữ này thuộc về những đứa trẻ ở lứa tuổi nhỏ hơn, còn ở lứa tuổi của nó thì
đã mất đi niềm vui này rồi. Ngược lại, trẻ ở tuổi tương đối nhỏ thì sẽ không
chạm vào một hình vẽ chỉ có thể nhìn bằng mắt, trẻ không hề có hứng thú
với điều này. Trẻ cảm thấy thích thú khi có thể cảm nhận được bằng xúc
giác, điều này thúc đẩy tay của trẻ tạo ra động tác, động tác này sau đó sẽ
được xác lập trong kí ức cảm giác bắp thịt của trẻ.
Khi giáo viên cho một đứa trẻ chăm chú quan sát và chạm vào chữ cái
trong bảng chữ cái, thì đồng thời 3 giác quan của trẻ cũng sẽ cùng bắt đầu
hoạt động: thị giác, xúc giác và cảm giác vận động của bắp thịt. Đó chính là
lí do vì sao thông qua phương pháp này, hình ảnh kí hiệu hình vẽ sẽ được
xác lập trong não nhanh hơn so với thông qua phương pháp phổ thông là ghi
nhớ bằng thị giác.
Ngoài ra, chúng ta còn cần phải chú ý một điều, đó là kí ức của cảm giác
bắp thịt là sự ghi nhớ lâu dài nhất, và cũng là sự ghi nhớ được xây dựng dễ
dàng nhất của trẻ thơ. Có lúc, khi trẻ nhìn thấy một chữ cái, tuy rằng chưa
thể nhận biết được, nhưng thông qua động tác chạm hay sờ vào, chúng lại có
thể phân biệt được những chữ cái ấy. Những hình ảnh này đồng thời sẽ được
liên hệ với “hình ảnh thính giác” của chữ cái.
2. Nhận thức: Khi trẻ em nghe được âm đọc của chữ cái, chúng cần so
sánh và xác định được hình dạng tương ứng của nó. Ví dụ, khi giáo viên nói
với một đứa trẻ: “Con hãy đưa cho cô chữ O! Đưa cho cô chữ I!”, nếu như
đứa trẻ này nhìn thấy những chữ cái ấy mà không thể phân biệt được, cô
giáo sẽ cho trẻ chạm vào những chữ cái này. Nhưng nếu làm như vậy rồi mà
trẻ vẫn không phân biệt được những chữ cái này, thì việc luyện tập của ngày
hôm đó nên tạm dừng, đợi ngày sau lại tiến hành tiếp. Giáo viên không cần
phải chỉ ra cho đứa trẻ biết lỗi của nó, bởi khi trẻ đã không thể phản ứng lại
ngay với những thứ vừa được dạy thì không nên cố kiên trì dạy tiếp ngay lúc
ấy. Tôi đã nhận thức được vai trò quan trọng của hai điểm này.
3. Ngôn ngữ: Trẻ em cần hiểu được phát âm của chữ cái trong bảng chữ
cái. Khi để những chữ cái này trên bàn, trẻ sẽ hỏi: “Đây là cái gì?” Sau đó
lại tự trả lời: “O, I”.