Trên thực tế, thầy của tôi lúc bấy giờ đảm nhiệm vị trí Bộ trưởng Bộ giáo
dục – đã mời tôi tới một loạt các buổi lên lớp cho các giáo viên dạy trẻ em
khuyết tật ở Rome. Các bài thuyết trình này đã được đưa đến một cơ sở của
nhà nước cho giáo viên bồi dưỡng và huấn luyện trẻ em chậm phát triển trí
tuệ, và tôi đã hướng dẫn họ trong hơn hai năm.
Học sinh trong tổ chức này đến từ nhiều nơi khác nhau, do trí tuệ của
chúng phát triển chậm chạp nên bị các trường tiểu học coi là những đứa trẻ
có trí tuệ yếu kém không thể cải thiện được. Sau đó, dưới sự giúp đỡ của
một tổ chức từ thiện, họ đã thành lập một cơ sở giáo dục chuyên biệt, ngoài
những học sinh từ nơi khác đến ra, nơi này còn thu hút một số trẻ em bị trở
ngại về trí tuệ đang cư trú tại Bệnh viện Tâm thần Rome.
Dưới sự phối hợp, giúp đỡ của các đồng nghiệp trong trường học, tôi đã
dành thời gian hai năm để chuẩn bị một loạt cách dạy và “cách quan sát đặc
thù” đối với trẻ em bị trở ngại về trí tuệ cho giáo viên tại Rome. Nhưng đó
chưa phải là toàn bộ, quan trọng hơn là sau khi đi London và Paris để nghiên
cứu về một bộ tài liệu giáo dục đầu tay cho trẻ em thiểu năng trí tuệ, tôi đã
bắt đầu bắt tay vào tự mình dạy dỗ các em, đồng thời hướng dẫn công việc
cho các giáo viên khác trong nhà trường.
Tôi không những là một giáo viên tiểu học mà còn chung sống cùng với
các em, bắt đầu từ 8 giờ sáng cho đến tận 7 giờ tối để không gián đoạn việc
tiến hành hướng dẫn giáo dục. Khoảng thời gian 2 năm này – trên thực tế –
là lần đầu tiên tôi thực sự không cảm thấy xấu hổ vì danh hiệu Giáo viên của
mình.
Từ năm 1898 đến năm 1900, trong thời gian đầu tập trung sức lực cho
công việc giáo dục trẻ em bị thiểu năng trí tuệ, tôi cảm thấy cách dạy mà
mình đang sử dụng không chỉ giúp ích cho trẻ em bị thiểu năng trí tuệ, mà
nó còn hợp lí hơn so với cách dạy hiện nay đang được sử dụng, bao gồm cả
nguyên tắc giáo dục, đặc biệt là ngay cả đối với trẻ em chậm phát triển trí
tuệ nó cũng đều có thể áp dụng được. Sau khi rời trường học của trẻ em
thiểu năng trí tuệ, suy nghĩ này ngày càng trở nên mãnh liệt trong tôi. Dần
dần tôi bắt đầu tin rằng, đối với trẻ em phát triển bình thường, sử dụng