hạch,… há lại ra ngoài công lệ này sao?
Đành rằng nói chuyện bệnh Ung Thư phải lấy tinh thần làm chánh, nhưng cái gián tiếp của tinh thần
cũng không phải là không quan trọng. Con người ngày nay, ta thử dạo khắp từ thành thị đến thôn dã, từ
những tu viện đến núi non, v.v… không đâu là không bàn bạc đến 2 chữ “cách mạng”, cơ hồ như có thể
mang vũ trụ mà thay đổi một cách rất dễ dàng. Nhưng than ôi! Nhìn vào thực tế lại không phải thế! Ta
có thể thấy cái dụng cụ gạt tàn thuốc bằng thủy tinh to bằng cái chậu, nhan nhản ở trong những nhà phụ
mẫu chi dân hoặc bác sĩ chẳng hạn. Ta có thể thấy những bữa ăn trong các tu viện nhan nhản những ly
nước đá soda hoặc nước cam rất hấp dẫn, có nhiều vị tu sĩ có thể hút một ngày một đêm chừng hai gói
thuốc 20 điếu và ta cũng có thể thấy những người bệnh trĩ biết rằng bởi cà phê gây nên mà vẫn có thể
uống cà phê trừ cơm. Hơn nữa, ta có thể thấy những vị bác sĩ lãnh đạo cơ quan vệ sinh, trong những
bữa ăn đầy dẫy thịt thà, cộng thêm bao nhiêu nước đá lạnh với rượu mạnh, v.v… (chỗ này vì nói nhiều
không đẹp mấy, nên chỉ bàn sơ). Hoặc bởi vô thức cũng còn cần phải mở mang ý thức hóa, phương chi
biết thì vẫn biết mà làm vẫn cứ làm, hóa ra 2 chữ “cách mạng” thật là rỗng tuếch.
Thế mới biết: Tinh thần là rễ đuôi chuột chánh của bệnh Ung Thư mà xã hội loạn ly phức tạp là những
rễ cái vậy.
Người ta nói chuyện ngừa bệnh có thể rất hào hứng, nhưng phạm vi không dùng bệnh để đổi lấy bệnh
nên mới có những trường hợp bệnh cũ biết được, đặt tên được, vẫn chưa trị được lại mang đi đổi lấy
một bệnh chưa đặt tên được, cũng chưa biết được thì thật đáng phì cười. Bệnh Ung Thư cũng không thể
ngừa được bằng cách đó.
Nay tác giả đề cập đến vấn đề ngừa bệnh Ung Thư bằng cách giải lý đơn sơ trên tâm lý thì dẫu có thiết
tha đến đâu đi nữa tôi cũng e rằng sẽ hoài công một cách miễn cưỡng. Một người vì khí giận xung
thiên gây thành bệnh Gan thì dẫu cho có thôi ngừng hẳn tánh giận cũng chưa chắc đã giải tán được
bệnh Gan trong kiếp này. Chính chỗ này mà nhân thuật của tác giả mới được tồn tại và những phương
pháp xê dịch cái quả, thay đổi cái nhân của các nhà tâm lý học, triết học, tôn giáo, v.v… mới không bị
xem thường. Cho nên dịch giả dám mạnh miệng nói: chừng nào các nhà đại phụ mẫu chi dân, đại trí
thức, đại khoa học, đại cách mạng, đại diện đại tôn giáo mà thật sự giác ngộ thì may ra chúng ta mới
có thể nói chuyện phát huy, cổ võ về ngừa bệnh Ung Thư của cái biển thế giới tổng thể Ung Thư ngày
nay. Đó là chuyện chung, còn trên từng cá nhân nếu không có một sự tin tưởng biết sợ, một năng lực
hiểu biết, một chí khí thực hành, một phương pháp đơn giản trường lưu thì cũng khó bề thâu hiệu. Chỗ
này lại là điều kiện phương pháp cùng với tinh thần của Trời Phật tồn tại nhưng Trời Phật ngày nay lại
trở thành công cụ của động cơ ly loạn mất rồi. Ôi! Thật rất không dễ dàng!
Sự quan hệ về chủng tộc với bệnh ung thư
Ung Thư là một thứ bệnh không chừa một dân tộc nào, chẳng qua vì tập quán sanh hoạt của mỗi dân
tộc chẳng đồng mà chỗ phát sanh Ung Thư có nhiều điều sai khác. Thí dụ như: Ung Thư ở da thì dân
da trắng nhiều hơn da vàng, và rất ít thấy ở dân da đen và da xanh. Đại khái như đàn bà con gái ở miền
đông Ấn Độ thường ưa nhai trầu, thậm chí đi ngủ cũng vẫn còn ngậm miếng trầu trong miệng, vì chịu
sự kích thích lâu ngày nên bệnh Ung Thư ở miệng rất nhiều.
Dân tộc bộ lạc trong núi Khách Thập Mễ Nhĩ vì tập quán mà mỗi người đều thường đội một cái giỏ
nhỏ, trong chứa một cái bình sành, bên trong có để lửa than, vì bị sự kích thích âm thầm đó gây thành