thuyền trưởng mua. Tranh vẽ các cảnh biển và các cảnh não nùng thương
cảm. Trên bức thứ nhất ta thấy vợ một người đánh cá đang vẫy khăn tay
trên bờ biển, trong lúc cánh buồm mang theo chồng cô khuất đi ở chốn
chân trời. Trên bức thứ hai, cũng người phụ nữ ấy, quỳ trên cũng bờ biển
ấy, vặn tay nhìn ra phía xa, dưới bầu trời đầy ánh chớp, trên mặt biển cuồn
cuộn những làn sóng khó mà có thực, con thuyền của người chồng sắp sửa
chìm.
Hai bức tranh kia thể hiện những cảnh tương tự trong một tầng lớp xã hội
cao hơn.
Một thiếu phụ tóc vàng mơ mộng, tì khuỷu tay trên mạn con tàu lớn đang
ra khơi. Nàng nhìn bờ biển đã lùi xa bằng ánh mắt ướt lệ và ướt niềm tiếc
nuối.
Nàng đã để lại ai ở sau nàng?
Rồi, cũng thiếu phụ ấy, ngồi bên một cửa sổ mở ra đại dương, ngất đi trên
chiếc ghế bành. Một lá thư vừa rơi từ lòng nàng xuống tấm thảm.
Vậy là chàng đã chết, tuyệt vọng biết chừng nào!
Thường thường khách tới thăm xúc động và xiêu lòng vì cái buồn tầm
thường của những đề tài rõ ràng và thơ mộng này. Mọi người hiểu ngay,
chẳng lý giải tìm tòi, và ái ngại cho những người phụ nữ đáng thương, mặc
dù không biết được chính xác bản chất nỗi đau buồn của người phụ nữ
thanh lịch hơn. Nhưng chính mối hồ nghi này giúp cho sự mơ màng. Chắc
hẳn nàng mất người chồng chưa cưới! Ngay từ cửa vào, con mắt đã bị thu
hút không cưỡng nổi hướng về bốn đề tài ấy và lưu luyến như bị mê hoặc.
mắt chỉ rời tranh để rồi vẫn cứ quay lại đấy, vẫn cứ ngắm nhìn bốn dáng vẻ
của hai thiếu phụ giống nhau như hai chị em. Đặc biệt từ nét vẽ rõ rành,
hoàn chỉnh, trau chuốt, thanh nhã theo kiểu tranh khắc thời thượng, cũng
như từ chiếc khung bóng loáng, toát ra một cảm giác tinh sạch và ngay
ngắn, còn được tô đậm thêm bởi các đồ đạc khác.
Ghế ngồi xếp theo trật tự không thay đổi, một số đặt sát tường, một số
quanh chiếc bàn xoay. Những tấm rèm trắng tinh, nếp buông thẳng thớm,
và đều tăm tắp đến nỗi nó nta muốn làm chúng nhàu đi một chút, và chẳng
bao giờ có một hạt bụi vương mờ quả cầu nơi chiếc đồng hồ mạ vàng, kiểu