thấy gì hết, chỉ có màu xanh lam. Với một quầng màu, một cầu vồng thật
tròn, rồi những vật kỳ quặc, những thứ ẩn ẩn, hiện hiện, khiến nàng nôn
náo choáng váng.
Nàng vừa trả chiếc ống nhòm vừa nói:
"Với lại tôi chưa bao giờ biết dùng cái dụng cụ này. Chuyện ấy thậm chí
làm nhà tôi nổi giận, ông thường ở bên cửa sổ hàng giờ nhìn tàu bè qua
lại".
Lão Roland phật ý bảo:
"Chắc hẳn do mắt bà có tật gì, vì kính của nó rất tốt".
Rồi ông đưa cho vợ:
"Mình có muốn xem không?"
"Không, cám ơn mình, tôi biết trước là sẽ không làm được".
Bà Roland, một phụ nữ bốn mươi tám tuổi nhưng trẻ hơn tuổi, dường như
vui hưởng hơn tất cả mọi người, cuộc du ngoạn và buổi chiều tà này.
Mái tóc hạt dẻ của bà chỉ mới chớm bạc ấy có một vẻ điềm tĩnh và biết
điều, một vẻ hạnh phúc và nhân hậu thật ưa nhìn. Theo cách nói của cậu
con trai Pierre, bà biết gía trị của tiền bạc, điều này không hề cản trở bà
hưởng cái thú mơ mộng. Bà thích đọc sách, thích tiểu thuyết và thơ ca,
không phải vì gía trị nghệ thuật của chúng, mà vì trạng thái mơ tưởng buồn
và dịu dàng chúng khơi dậy nơi bà. Một đôi điều nhiều khi vô vị, nhiều khi
dở, làm rung tơ lòng, như bà nói, khiến bà có cảm giác về một ước nguyện
huyền bí hầu như đã thành. Và bà thích thú những tình cảm nhẹ nhàng ấy,
chúng làm xao động đôi chút tâm hồn chỉn chu ngăn nắp như một cuốn sổ
kế toán của bà.
Từ khi đến Le Havre, bà đẫy ra khá rõ, thân hình xưa kia rất uyển chuyển
và rất mảnh mai thành ra nặng nề.
Chuyến đi biển này làm bà phấn khởi. Ông chồng, không ác, nhưng hay gắt
gỏng bà như các nhà chuyên chế chốn cửa hàng thường gắt gỏng mà không
giận dữ và không căm ghét, với họ chỉ huy tương đương với rủa xả. Trước
mọi người lạ, ông giữ gìn nhưng trong gia đình thì ông buông thả và lmà ra
bộ dạng ghê gớm, tuy ông sợ tất cả mọi người. Bà, vốn ghét ầm ĩ, ghét
những vụ cãi cọ, những chuyện phân trần vô bổ, nên luôn luôn nhường