xuống và chậm vớt lên là chết sặc. Cứng cáp, vững chắc sao nổi khi ngày
nào cũng chỉ một món duy nhất, không ra cháo không ra cơm, lổn nhổn
những vụn cháy và xương cá. Phải cho ăn cách này mới thuận tiện: Đỡ phải
chén, bát, muỗng, dĩa. Khám tạm mà. Giờ “cơm” cứ 12 thằng một tổ được
hướng dẫn vô lò: Có nón thì ngửa ra nếu không “túm” bằng vạt áo!
Khám Vogvozdino (cách tỉnh lỵ Ust Vym cỡ 10 cây số) ngày nay có ai biết
nó nằm chỗ nào. Đấy là cửa di chót dẫn vào quần đảo, có lúc chứa tới 5
ngàn tù. Vô đây là tống ngay đi, thằng nào xui xẻo lắm mới kẹt cỡ 1 năm
(!) chỉ vì chẳng Trại Cải tạo nào chịu nhận cho. Kẹt cỡ đó chỉ là dai sức lắm
vì Vogvozdino đâu có dựng trên bãi sình mà chế độ khẩu phần cũng in hệt
Knyazh Pogost! Món ăn duy nhất năm này sang năm khác cũng nửa cháo
nửa cơm. Mỗi tổ 10 mạng lãnh về một chậu “la-va-bô”, nóng hay nguội
cũng chỉ có một cách là lấy tay vét ăn.
*
Xin nói ngay để bạn đọc đừng chê thô tục: Ăn đã vậy thì ỉa làm sao? Ôi
chao, cả một cực hình!
Sự thực mấy ông nhà văn vốn nghèo chất liệu mỗi khi đả động đến nếp
sống và phong tục quần đảo. Hình như mỗi lần muốn vạch rõ chế độ nhà tù
hắc ám, phi nhân họ ưa nhấn mạnh và lên án cái cầu tiêu mà theo họ đó là
tượng trưng rõ nét nhất về sự hành hạ, sa đoạ con người. Họ cứ tưởng đâu
cầu tiêu là cả một ám ảnh hãi hùng đối với thằng tù. Chao ôi, họ đâu biết
chính nó là cứu tinh – một ân huệ lớn của nhà tù ban cho thằng tù. Ám ảnh
hãi hùng đệ nhất là bước vô xà lim không thấy nó nằm đâu kìa!
Có đi tù Tây Bá Lợi Á năm 1938 mới hiểu nỗi thống khổ của thằng tù
không có cầu tiêu để mà ỉa! Làm sao cho kịp cầu tiêu, biết bao nhiêu cầu
tiêu mới đủ cho nhu cầu tối thiết của những lớp tù dồn vô đông đến thế? So
với những đợt tù dồn dập thì kỹ nghệ xây cất của Tây Bá Lợi Á tiến bộ sao
kịp?
Thế là những nhà kho đợt mới thiếu đứt khoản cầu tiêu. Rồi những xà lim
cũ bên trong có sẵn cầu tiêu cũng gỡ đi luôn. Để nó làm chi, khi nó không