mảnh xỏ bên dưới đôi cánh, cho phép Tessa đeo thiên sứ như đeo một mặt
dây chuyền.
Tessa biết thiên sứ là một vật chạy cơ vì nếu cô giơ nó lên tai, cô sẽ nghe
thấy tiếng máy chạy, như tiếng của đồng hồ đeo tay vậy. Nate đã reo lên vui
sướng khi thấy nó vẫn chạy sau ngần đó năm, và anh tìm kiếm một cái núm
hay đinh vít, hoặc bất cứ cái gì để nạy nó ra. Nhưng anh chẳng tìm được gì
hết. Và thế rồi anh nhún vai và giao thiên sứ cho Tessa. Kể từ thời khắc đó,
cô chưa từng tháo nó khỏi cổ; kể cả khi cô ngủ hằng đêm, thiên thần cùng
nằm kề bên trái tim cô, tiếng tíc tắc đều đặn của nó giống như nhịp đập của
trái tim thứ hai vậy.
Giờ khi Main rẽ nước đi qua những con tàu hơi nước to lớn khác để tìm
chỗ neo đậu trên bến cảng Southampton, cô lại nắm chặt lấy thiên sứ. Nate
một mực bắt cô tới Southampton thay vì Liverpool – đích đến của hầu hết
các tàu viễn dương. Anh bảo thời tiết ở Southampton dễ chịu hơn, nhưng
giờ khi nhìn thấy khung cảnh Anh đầu tiên, cô không kiềm được chút thất
vọng. Trời xám xịt ảm đạm. Mưa rỉ rả đổ xuống những ngọn tháp nhà thờ
xa xa, còn khói đen sì bốc lên từ ống khói tàu, nhuộm đen bầu trời vốn
chẳng lấy gì làm tươi sáng. Một đám đông mặc đồ đen đang cầm ô đứng ở
cầu tàu. Tessa căng mắt tìm anh trai, nhưng sương mù cùng hơi nước từ tàu
bốc ra quá dày đặc khiến cô chẳng nhìn ra ai với ai.
Tessa rùng mình. Gió biển thổi từng cơn rét buốt. Tất cả những lá thư của
Nate đều nói Luân Đôn rất đẹp và luôn nắng ráo. Tessa mong thời tiết ở đó
khá khẩm hơn đây, vì ngoài tấm khăn choàng len của dì Harriet và một đôi
găng tay, cô không mang theo món đồ ấm nào nữa. Cô đã bán gần hết quần
áo để lo liệu tang ma cho dì, vì tin rằng anh sẽ mua thêm đồ cho cô khi cô
tới Luân Đôn ở cùng anh.
Một tiếng hét vang lên. Con tàu Main sơn đen bóng sáng lên trong màn
mưa đã hạ neo và những tàu kéo đã lướt đi trên làn nước nhấp nhô xám xịt,
sẵn sàng chở hành lý cùng hành khách vào bờ. Đám hành khách nhốn nháo