nào.
Hơn thế, cuộc nói chuyện giữa hai cô gái tóc nâu này với món kem phủ
sôcôla trở nên rất cởi mở. Tibby thấy mình kể về bộ phim đang lên kế hoạch
quay với một sự thú vị và cởi mở khác thường. Bailey thì cư xử cứ như thể
cô bé rất hứng thú, và Tibby chẳng thể nào thờ ơ với một người đang nghĩ
rằng nó thật thú vị được.
Điều này khiến Tibby phân vân về bản thân nó - có đúng là nó nhớ bạn bè
hơn là nó nhận thấy không. Có phải nó cô đơn đến độ đã cởi mở hết cỡ với
một con bé mười hai tuổi tính khí khó chịu tình cờ gặp nào đó không?
Bailey cũng nghi ngờ tương tự. “Chị có bạn bè không thế?” con bé hỏi nó.
“Có chứ,” Tibby nói vẻ tự vệ. Nhưng ngay khi nó bắt đầu mô tả ba người
bạn xinh tươi, tuyệt vời và thú vị của nó và những nơi hay ho các cô bạn kia
đang đến nghỉ hè, nó nhận ra câu chuyện thực sự nghe như bịa.
“Vậy tất cả bạn bè của em đâu?” Tibby cuối cùng cũng hỏi lại, đẩy gánh
nặng sang cho Bailey.
Bailey huyên thuyên một hồi về một con bé Maddie nào đó sống ở
Minnesota và một đứa nào đó nữa. Tibby chợt nhìn lên và nhận thấy Tucker
Rowe đang đứng ở quầy tính tiền. Tim nó bắt đầu đập nhanh hơn. Có phải
cậu ta chính là người duy nhất trong lớp nó cũng ở nhà vào mùa hè này? Nó
giờ đã đoán ra rằng cậu ta đang làm việc cho cửa hàng băng đĩa có cùng khu
đỗ xe với cửa hàng Wallman. Đó là một cửa hàng cách đây bốn tòa nhà, phải
đi qua một cửa hàng Burger King, một cửa hàng pizza, một cửa hàng thú
nuôi, vì thế việc gặp anh ta không phải là điều thường xuyên xảy ra. Nhưng
có lẽ sẽ xảy ra chứ nhỉ, vì đã xảy ra một lần rồi.
Có người bỏ lối đi quen thuộc để cố tìm cách gặp ai đó mà họ phải lòng.
Tibby lại làm mọi cách để tránh điều đó. Có lẽ, như nó nhận định, Tucker đỗ
xe ở phía sau cửa hàng. Vì thế nó luôn tìm cách để dựng chiếc xe đạp của nó
ở phía trước. Và có vẻ như mọi việc ổn thỏa. Trừ lúc này, trong cửa hàng
kem này, cái cửa hàng tình cờ lại ở ngay bên cạnh cửa hàng thú nuôi. Tibby
lặng lẽ nhiếc móc mình vì đã lên kế hoạch quá tồi.