những mạng lưới kí ức tượng trưng cho những trải nghiệm thương hiệu,
và
những mạng lưới kí ức tượng trưng cho những trải nghiệm quảng cáo ,
mà cả hai đều bổ sung cho
những mạng lưới ‘kí ức kiến thức’.
Ghi chú: Phần kí ức về ‘chó săn chồn’ của mạng lưới bị tác động bởi trải
nghiệm.
Hình 28.4: Mạng lưới kí ức kiến thức về tình huống bị chó cắn
Trải nghiệm quảng cáo và trải nghiệm thương hiệu có thể thẩm thấu vào
tâm trí để tác động đến sức mạnh của các liên kết khác nhau trong mạng lưới
‘kí ức kiến thức’ của chúng ta. Chúng ta không biết chính xác hai loại mạng
lưới này tương tác và ảnh hưởng đến nhau ra sao, nhưng chúng ta biết rằng
kích hoạt đồng thời hai kí ức bất kì trong mạng lưới này sẽ tác động đến
mạng lưới còn lại. Ví dụ, tăng cường sức mạnh cho kết nối giữa mặt hàng
(nước trái cây) và thương hiệu (Minute Maid) trong mạng lưới kí ức dành
cho trải nghiệm quảng cáo, như mô tả trong hình 28.3, cũng sẽ củng cố kết
nối tương ứng giữa hai kí ức đó trong mạng lưới ‘kí ức kiến thức’ của chúng
ta (Hình 28.4). Việc ‘kích hoạt’ này củng cố kết nối đó và bất cứ kết nối liên
tưởng nào gần kề.
Khi đã được trang bị với quan điểm mới hiện đại về kí ức, giờ đây chúng
ta có thể tiếp tục cuộc kiểm nghiệm về chủ đề: các tiêu chí đo lường xoay
quanh mẩu quảng cáo hoạt động ra sao với vai trò hỗ trợ chẩn đoán. Đã đến
lúc xem xét lần lượt từng tiêu chí phổ biến hơn – những tiêu chí tập trung
vào bản thân mẩu quảng cáo và phác thảo vai trò của từng tiêu chí, cách sử