pháo của chúng nổ tới tấp phía mạn trái. Tất cả phải ra khỏi hầm đào công
sự cá nhân chuẩn bị đánh phản kích. Tôi được lệnh bò lên trên cùng, đào hố
chốt ở đó. Đang bò, chợt thấy một khẩu B40 có đạn vứt bên cạnh, tôi nhặt
luôn và nghĩ bụng: “Càng nhiều súng, chốt càng tốt”. Tới sau một lùm phi
lao thấp lè tè, tôi rút dao găm ra đào hố. Đất toàn cát nên bới cũng dễ.
Trước mặt tôi là Tám Cát. Phía bên trái, đạn pháo kích càng lúc càng
nổ dữ dội. Nghe có cả tiếng B40 và những tiếng gào ầm ĩ vọng đến: “Xung
phong!... Xung phong!...”. Tôi nhìn sang bên đó, thấy thấp thoáng có bóng
người. Không hiểu ai đang xung phong, ta hay địch?.
Khi cái hố đã tạm ổn, tôi đưa mắt quan sát xung quanh. Những khóm
phi lao lùn mọc đầy trên doi cát hạn chế tầm mắt khá nhiều. Hình như có
mấy tên địch chạy từ Tám Cát xuống đồng múc nước. Yên ngựa phía phải
Tám Cát được nối liền với nhiều mỏm đồi thấp lè tè, kéo dài tới tận làng 6
xa xa. Qua yên ngựa thấy thấp thoáng bóng địch đi lại. Sau Tám Cát là
biển. Chếch về trái Tám Cát là những gò cát nhỏ liền nhau, nhìn qua chúng
có thể thấy sóng biển vỗ ào ào. Sau các gò thấy nhiều lính địch đang nhô
lên quan sát. Chúng toàn mặc quần áo rằn ri xanh, phần lớn để đầu trần. Có
mấy tên dáng chừng chỉ huy, đang tụm lại phía sau, giơ ống nhòm quan sát.
Những chiếc chăn dù bọn chúng khoác trên vai tung bay theo chiều gió. Tôi
giơ B40 lên toan bắn 1 phát, nhưng rồi thôi, vì khoảng cách xa quá. Cả
quãng đồng nước phải hơn 300m, B40 bắn chưa chắc trúng, lại dễ lộ vị trí.
Hơn nữa chúng di động liên tục nên rất khó ngắm. Tôi báo cáo với anh
Hưởng, anh chỉ nhắc mọi người sẵn sàng. Nhìn theo hướng bọn địch đang
quan sát, tôi quay cổ ra sau, chếch phía trái, thấy trên một mỏm đồi nhỏ
lính C nào đó đang kéo vào. Trời đầy mây mù, mưa lâm thâm. Những bóng
lính ta im lặng, đi cách thưa, mặc áo mưa màu xám. Pháo địch từ làng 6,
làng 5 vẫn bắn tới dữ dội, nhiều quả nổ gần chỗ tôi. Nghe tiếng đạn rít thật
dễ sợ.