không làm như vậy, vì lúc sau mới biết đó là một toán trinh sát của ta định
đột nhập Làng 6 mà thất bại. Rồi thấy anh Hưởng, Chính trị viên phó đại
đội và anh Căn, Tiểu đoàn phó xuất hiện, yêu cầu tôi và Quang “xỉu” giúp
vận chuyển một thương binh về phía sau. Người bị thương nằm trong một
chiếc võng bạt, đang rên la. Một thanh gỗ to, nguyên là đòn nóc của một
ngôi nhà, được dùng để khiêng võng. Cái đòn này nặng kinh khủng, cộng
thêm trọng lượng của thương binh nghiến lên vai rất đau. Thương binh hóa
ra là cậu Mốc người Quảng Trị, thường dẫn đường cho chúng tôi trong các
trận tập kích. Cậu ta dẫm phải mìn nát bàn chân trái, máu thấm đẫm mấy
cuộn băng. Tôi và
Quang loạng choạng khiêng thương binh lội trên đồng nước, hướng về
Làng 9. Trời nhờ nhờ sáng, nhưng sương mù dày đặc chẳng nhìn thấy gì
hết. Kiểu này khéo lại đi lạc vào chốt của địch thì chết. Vừa mệt, vừa đói,
vừa lo lắng, đòn thì nặng, thương binh rên la suốt, làm Quang nổi quạu.
Cậu ta quát lên: “Ông im mẹ nó cái mồm ông đi, không thì tôi quẳng ông
xuống ruộng bây giờ!”. Cậu Mốc nghe thế chỉ còn dám rên khe khẽ. Rồi
cuối cùng cũng đến được Trạm cứu thương của Tiểu đoàn, chúng tôi bàn
giao thương binh cho C25 Vận tải khiêng đi tiếp. Tầm 11h trưa thì anh
Phùng Chính trị viên Đại đội bị chết. Lúc đó anh đang ở tuyến hào B1, và
gọi Ngô Duy Minh ra cùng quan sát địch. Anh hỏi Duy Minh: “Có chiếc xe
tăng ở Làng 6 phủ lá chuối khô ngụy trang. Cậu xem từ đây đến đấy liệu
B41 bắn được không”? Duy Minh vừa trả lời: “Em sợ xa quá anh ạ...” thì
một quả pháo lao tới nổ trúng chỗ anh đứng. Anh Phùng bị tan xác, Duy
Minh bị mảnh pháo vào đầu, máu chảy ròng ròng xuống cổ. Cậu ta la hét
thảm thiết, nhưng bọn B1 nhát quá, rúc hết trong hầm, không thằng nào ra
cứu Minh cả.
Tôi nằm ở tuyến B2 phía sau, cách đó khoảng 50m, nghe tiếng bạn
kêu xót ruột quá, bèn quyết định bò lên cứu. Sau khi băng bó cho Duy
Minh, tôi cầm hộ bạn cái bòng (một kiểu túi đeo, giống ba lô) bò trước,
Minh bám theo vết chân bò phía sau. Bò qua chỗ anh Phùng hy sinh, chỉ