Tôi lại ngủ gà ngủ gật. Chiếc xe ngoặt mấy lần. Chợt ai đó nói: “Hình
như đây có một thị trấn”. Tôi mở mắt nhìn xuống, chợt thấy tòa nhà quét
vôi trắng quen quen, và nhận ra đó là Cửa hàng Ăn uống Đô Lương, bên
cạnh có hiệu sách. Chiếc xe rẽ ngoặt xuống đường đi Phố Mới. Tôi kể cho
đồng đội nghe đây là nơi ông bà ngoại tôi ở. Tới Phố Mới, tôi nhìn vào nhà
bà Ba còn thấy đèn sáng ở quán nước trước nhà, và chỉ kịp thét lên “Bà Ba
ơi” thì chiếc xe đã vụt qua. Tiếc quá, giá xe dừng lại nghỉ giải lao thì hay
biết mấy.
Chúng tôi chạy thẳng về hướng Vinh, nhưng đến Nam Đàn thì đoàn xe
dừng lại. Được lệnh xuống xe hành quân vào làng có binh trạm. Vì quân
chưa tới đủ, anh Y Đại đội phó ra lệnh tạt vào một cái sân kho nghỉ để đợi.
Sân lát gạch rộng mênh mông, chúng tôi giở cơm nắm ra ăn. Đêm rất
khuya, đại đội mới tới chỗ nghỉ. Cô giao liên dẫn đường chỉ cho tiểu đội tôi
hai nhà. Tôi bố trí Tổ 1 và Đệ ở một nhà, còn lại ở nhà thứ hai. Nhà hơi
chật nên tôi mắc võng ra hè ngủ. Hôm sau Duy Minh đi lĩnh trứng muối,
thịt tươi, bí, rau, miến về nấu cơm cho tiểu đội. Binh trạm này nói chung
hậu cần khá. Đây là xã Nam Hòa, cách Nam Liên quê Bác khoảng 4-5 km
và cách Nam Hùng, nơi hồi bé tí tôi đã ở, khoảng 3-4 km. Ở đây có chợ sơ
tán, nghe nói có phở, cà-phê, nước chanh. Lính ta nhiều người đem bán
quần áo, mũ, mì chính để lấy tiền ăn uống, và cũng để ba-lô nhẹ bớt. Tôi
cũng bán cái mũ cứng và một cái áo lót cùng với Quang “xỉu”, rồi vào quán
ở ven chợ ăn miến, uống nước chanh. Sau đó hai đứa đi lên đê chơi. Dòng
sông Lam ánh lên chói mắt dưới nắng trưa, bầu trời xanh ngắt. Chúng tôi
theo dõi những chiếc máy bay A6A của Mỹ đang nghênh ngang và hùng hổ
bổ nhào đánh phá rú Đụn bên kia sông. Không thấy có tiếng súng bắn trả.
Tôi nhìn những quả núi lô nhô, và tự hỏi không biết quả nào là rú Chung,
rú Thành như trong các sách tả cảnh quê Bác đã nói tới. Và tôi cũng rất
muốn đến thăm quê Bác một lần.
Hai giờ chiều, anh Bính báo cho các A nấu cơm nắm và ăn cơm để 4
giờ hành quân. Chúng tôi gấp rút chuẩn bị. Cũng may quần áo tắm giặt đã