nước mà tín dụng tư nhân tăng trưởng nhanh hơn nhiều so với nền kinh tế
trong năm năm nên cảnh giác với một cuộc suy trầm gay gắt về tỷ lệ tăng
trưởng kinh tế và có thể cả một cuộc khủng hoảng tài chính, bởi vì tình trạng
cho vay đang vượt ngoài tầm kiểm soát. Mặt khác, nếu tín dụng tư nhân tăng
trưởng chậm hơn nhiều so với nền kinh tế trong năm năm, nền kinh tế có thể
chờ đón một cuộc phục hồi, vì các chủ nợ hầu như đã làm sạch sổ sách và
gần như sẵn sàng để cho vay trở lại.
Thái Lan minh họa cho cả hai mặt của quy luật này. Sau khi mức tăng
trưởng tín dụng năm năm so với GDP vượt qua ngưỡng 40% vào 1993, tỷ lệ
tăng trưởng GDP bình quân hằng năm của Thái Lan suy sụp từ 11% trong
năm năm trước 1993 xuống chỉ còn 2,3% trong năm năm tiếp theo. Tuy
nhiên tín dụng vẫn tiếp tục gia tăng cho đến cuộc khủng hoảng năm 1997.
Khi ấy, các chủ ngân hàng và khách hàng vay mới lùi bước, và trong khi họ
đang bị tổn thương, tín dụng đã giảm về tỷ lệ so với GDP trong vòng năm
năm, suốt đến 2001. Mãi đến khi cuộc thanh tẩy hoàn tất, Thái Lan mới bắt
đầu thực sự lấy lại được đà hồi phục.
Tư nhân đi đầu, nhà nước theo sau
Các cuộc khảo nghiệm được tiến hành sau biến cố khủng hoảng tài
chính toàn cầu năm 2008 đã giúp chúng ta hiểu thêm về cơ chế của khủng
hoảng tài chính và lý do tại sao chúng hầu như luôn có thể truy nguồn từ
việc vay vốn của các công ty và cá nhân. Câu trả lời cơ bản là, khu vực tư
nhân là nơi thường xuất phát cơn sốt tín dụng. Một tác nhân nào đó – thường
là một sáng chế hoặc phát kiến – đã thuyết phục được mọi người rằng nền
kinh tế đang bước vào một giai đoạn dài tăng trưởng nhanh chóng, mà triển
vọng thu nhập trong tương lai của họ đang tươi sáng, và họ có thể gánh nợ
nhiều hơn. Tại Mỹ, các cuộc bùng nổ tăng trưởng tín dụng đã được châm
ngòi bởi sáng chế chuông lặn, việc khánh thành kênh đào và đường sắt, sự ra
đời của truyền hình, sự xuất hiện của mạng lưới cáp quang đầy uy thế, và sự
hiện diện của các loại công cụ cho vay mới cho phép người ta vay dựa trên
giá trị căn nhà của mình.