loạt” sáu năm trước khi sự sụp đổ của chúng châm ngòi cho vụ bùng vỡ thị
trường nhà đất và chứng khoán Mỹ vào 2007 và 2008.
Khi Bắc Kinh ra lệnh cho các ngân hàng nhà nước thắt chặt chuẩn cho
vay, lại càng có thêm người đi vay và người gửi tiền tìm đến các ngân hàng
ngầm này, mà đến 2013 đã chiếm đến nửa ngàn tỷ đô-la trong các dòng tín
dụng mới. Khi chính quyền trung ương bắt đầu hạn chế lượng tiền mà chính
quyền địa phương có thể vay, họ thành lập các công ty bình phong hoặc
“phương tiện gây quỹ của chính quyền địa phương” để vay mượn từ các
ngân hàng ngầm. Chẳng mấy chốc các đơn vị bình phong của chính quyền
địa phương này đã trở thành con nợ lớn nhất trong hệ thống ngân hàng
ngầm. Thị trường trái phiếu doanh nghiệp tăng trưởng với tốc độ ào ạt, và
hầu hết các “tập đoàn” bán các trái phiếu này thực chất cho các bình phong
của chính quyền địa phương.
Trung Quốc cũng rơi vào một cái bẫy kinh điển khác của cơn sốt tín
dụng, khi ngày càng nhiều tiền đi vay được rót để nuôi một cơn sốt giá bất
động sản. Trong những thập kỷ gần đây, các cuộc suy thoái thường bắt
nguồn từ các cơn sốt bất động sản dựa trên nợ, đơn giản do đã có một vụ đổ
vỡ trong tài chính thế chấp. Nghiên cứu Taylor được dẫn ở trên đã khảo sát
17 nền kinh tế tiên tiến ngược về đến 1870 và phát hiện ra rằng cuộc bùng
nổ tăng trưởng mới đây trong ngành tài chính toàn cầu đã được dẫn dắt bởi
một cơn sốt cao cho vay thế chấp với các hộ gia đình. Trong khoảng thời
gian 140 năm đó, mức cho vay thế chấp đã tăng gấp tám lần, trong khi tiền
ngân hàng cho vay với các hộ gia đình và công ty tư nhân cho các mục đích
khác tăng gấp ba lần. Trên toàn thế giới, tiền vay mua nhà hiện nay chiếm
hơn một nửa doanh số của một ngân hàng điển hình. Điều đó, Taylor cho
biết, lý giải tại sao các cuộc bùng nổ và suy thoái kinh tế “dường như ngày
càng được định hình bởi cơ chế tín dụng thế chấp”, trong khi các hình thức
cho vay khác chỉ đóng một vai trò nhỏ.
Mối liên hệ ngày càng khắng khít giữa các khoản vay mua nhà và thảm
họa tài chính cũng lộ rõ không kém trong thế giới mới nổi. Nghiên cứu của
Trung tâm Quốc tế Nghiên cứu Tiền tệ và Ngân hàng cho thấy nhiều “phép