trình thoái nợ, tức cắt giảm các khoản nợ, vốn vẫn đang tăng với tốc độ 15%
một năm, nhanh gấp đôi so với nền kinh tế. Lịch sử cho thấy khi các cơn sốt
tín dụng quy mô lớn bắt đầu giảm bớt, và mức tăng trưởng tín dụng giảm
xuống dưới mức tăng trưởng kinh tế, kết quả ngay lập tức thường là một
cuộc suy thoái. Nhưng đó là một bước thanh lọc cần thiết, trước khi có thể
bắt đầu một thời kỳ mới tăng trưởng tín dụng lành mạnh.
Lợi ích của các cơn sốt tín dụng
Không phải mọi sự tăng nợ đều tệ. Chủ nghĩa tư bản không thể vận
hành nếu thiếu một hệ thống tín dụng cho phép các chủ doanh nghiệp nhỏ
vay vốn cho các giấc mơ lớn, và đã có nhiều cơn sốt tín dụng hữu ích, khi
tín dụng tăng trưởng – một cách không quá nhanh – về tỷ lệ so với nền kinh
tế và đổ vào các dự án có thể thúc đẩy tăng trưởng trong tương lai. Các cuộc
bùng nổ tăng trưởng tín dụng ổn định có thể giúp ngân hàng có thêm vốn, vì
họ kiếm được lợi nhuận tốt từ các khoản cho vay, và với các phương thức
cho vay được cải thiện, họ đưa ra các sản phẩm tín dụng sáng tạo thỏa đáng.
Giờ ta bàn đến mặt tích cực của quy luật này: Nếu tín dụng đã và đang
tăng chậm hơn so với nền kinh tế trong năm năm, điều đó cho thấy hệ thống
ngân hàng đang hồi phục, các chủ nợ đang sẵn sàng bắt đầu cho vay trở lại,
và một giai đoạn tăng trưởng tín dụng lành mạnh sắp diễn ra. Trong thực tế,
nợ tăng càng chậm về tỷ lệ so với GDP trong khoảng thời gian năm năm thì
càng có nhiều cơ may nền kinh tế sẽ chứng kiến sự gia tăng mức tăng
trưởng, được thúc đẩy bởi tín dụng lành mạnh, trong những năm tiếp theo.
Nhiều nước đã chuyển biến theo hướng tích cực này về tín dụng và tăng
trưởng GDP trong những thập kỷ gần đây, gồm Chile, nước đã chạm đáy
khủng hoảng vào 1991, Hungary vào 1995 và Cộng hòa Séc, nơi tín dụng tư
nhân chạm đáy ở mức 30% GDP vào 2002. Tuy nhiên, một trong những vụ
“chạm đáy” ấn tượng nhất xảy ra ở Indonesia sau cuộc khủng hoảng tài
chính châu Á 1997 – 1998.
Vào 1997, khi những dấu hiệu đầu tiên về rắc rối nợ xuất hiện ở nước
láng giềng Thái Lan, giới chức trong chính quyền độc tài Suharto ở
Indonesia đã không nhận ra quốc gia của họ dễ bị tác động ra sao. Trong