Bây giờ là 5 giờ 12 phút ở New York, tức là 10 giờ 12 phút ở London và
11 giờ 12 phút ở Geneva. Vào lúc 9 giờ sáng hôm sau, ngay ông cũng
không thể ngăn được những hàng tít lớn trên các tờ báo của ông, chứ đừng
nói gì đến những tờ báo của Keith Townsend.
Armstrong kéo khoá, để quần áo rơi thành đống trên sàn. Sau đó ông mở
tủ lấy chai brandy, rót một cốc lớn rồi vật ra giường. Ông nằm im lìm trong
khi tiếng máy tàu gầm lên và chiếc du thuyền bắt đầu lách mình ra khỏi
cảng.
Mấy giờ trôi qua mà Amstrong vẫn nằm bất động, chỉ trừ những lúc rót
thêm rượu, cho đến khi ông nghe chiếc đồng hồ nhỏ để gần giường điểm
bốn tiếng. Ông lồm cồm bò dậy, đợi một lát rồi đặt chân xuống nền thảm.
Ông đứng không vững, loạng choạng đi qua phòng không bật đèn, vào nhà
tắm. Khi đến chiếc cửa mở sẵn, ông với tay lấy chiếc áo choàng rộng màu
kem thêu chữ Hầu tước Lancelot màu vàng trên túi. Ông sờ soạng đi về
phía cửa cabin, thận trọng mở và chân trần bước ra ngoài hành lang tối ánh
đèn. Ông do dự trước khi khóa cửa cabin, đút chìa vào túi áo choàng. Ông
đứng im cho đến khi cầm chắc không nghe tiếng gì khác ngoài tiếng máy
quen thuộc của con tàu.
Armstrong lảo đảo đi dọc hành lang tàu, dừng lại ở chân cầu thang dẫn
lên boong. Rồi ông từ từ trèo lên, tay bám chắc vào hai sợi dây to dùng làm
tay vịn. Lên hết cầu thang, ông bước ra boong, vội vã nhìn ngược ngó xuôi.
Không có ai. Đêm tối trong veo, lành lạnh, không khác gì những đêm vào
thời gian này trong năm.
Armstrong chầm chậm bước đi, cho đến khi ông đến khoang trên chỗ
đặt máy, nơi ồn nhất trên tàu.
Ông chỉ đợi một lát, rồi tháo dây buộc áo choàng, để nó tự rơi xuống
sàn.
Trần truồng trong đêm, ông nhìn ra biển tối đen tịch mịch và nghĩ: Chả
lẽ đời ta chỉ thoáng qua trước mắt trong một khoảnh khắc như thế này sao?