giả định Mickey, đang chật vật với việc kinh doanh chuột máy tính ở Úc và
Trung Quốc. Sau khi biết được những thách thức của công ty, họ được yêu
cầu viết ra tất cả những chiến lược có thể nghĩ đến để giúp cải thiện tình
hình của Mickey.
Lovallo và Dubin cung cấp cho một số sinh viên một hoặc một số
phép so sánh tương đồng trong phần hướng dẫn của họ. (Ví dụ: “Hồ sơ của
công ty Nike và McDonald’s có thể hữu ích để bổ khuyết cho các khuyến
nghị của các bạn, nhưng không nên chỉ giới hạn trong hai công ty đó”).
Những sinh viên khác không được cung cấp gì. Những sinh viên được gợi ý
với một sự so sánh tương đồng đưa ra nhiều chiến lược hơn những sinh
viên không được cung cấp gì, và những sinh viên được đưa ra nhiều sự so
sánh tương đồng đề xuất nhiều chiến lược hơn những người chỉ được gợi
nhắc một ví dụ. Và sự so sánh tương đồng càng xa cách, thì ý tưởng tạo ra
càng tốt. Những sinh viên được gợi nhắc đến Nike và McDonald’s đề xuất
nhiều lựa chọn chiến lược hơn bạn của họ – vốn được gợi nhắc đến các
công ty máy tính như là Apple và Dell. Lời gợi nhắc để mở rộng so sánh
tương đồng mở rộng ra giúp cho sinh viên ngành kinh doanh sáng tạo hơn.
Điều không may là sinh viên cũng nói rằng nếu họ sẽ sử dụng kết quả của
những công ty trong phép so sánh tương đồng, họ tin rằng cách tốt nhất để
đề xuất ra các lựa chọn chiến lược là tập trung vào chỉ một ví dụ trong cùng
một lĩnh vực. Giống như các nhà đầu tư mạo hiểm, trực giác của họ mách
bảo họ dùng quá ít sự so sánh tương đồng, và dựa vào những trường hợp tỏ
ra bên ngoài là tương đồng nhất. “Thường đó chính xác là cách làm sai lúc
bước chân vào con đường lầm lạc, bất kể bạn đang dùng phép so sánh
tương đồng để làm gì,” Lovallo bảo tôi.
Tin tốt là khá dễ để triển khai những phép so sánh tương đồng từ góc
nhìn nội bộ mang tính trực giác sang góc nhìn bên ngoài. Vào năm 2001,
Tập đoàn tư vấn Boston, một trong những tập đoàn tư vấn thành công nhất
trên thế giới, tạo ra mạng nội bộ để cung cấp cho các tư vấn viên những bộ
sưu tập tài liệu để thúc đẩy tư duy so sánh tương đồng với phạm vi rộng.
Những “sản phẩm triển lãm” có tương tác được phân loại theo lĩnh vực
(nhân chủng học, tâm lý học, lịch sử, và những lĩnh vực khác), khái niệm