cứu, họ lại khá chật vật khi áp dụng suy luận khoa học vào các vấn đề
không liên quan đến hóa học.
1
. Như nhà tâm lý học Robin Hogarth đã nhận xét về các nhà kinh tế
học: “Điều gây ấn tượng với tôi về lĩnh vực của họ là việc những thuật ngữ
và quá trình suy luận của kinh tế học có ảnh hưởng đến hầu như tất cả các
chủ đề, từ thể thao, hiện tượng kinh tế, chính trị hay thậm chí là chương
trình giảng dạy.”
Các sinh viên được Flynn kiểm tra thường nhầm lẫn các đánh giá tinh
tế có giá trị với các kết luận khoa học, và trong một câu hỏi đề cập đến một
tình huống hóc búa yêu cầu sinh viên không nhầm lẫn mối tương quan với
dấu hiệu của quan hệ nhân quả, họ trả lời còn tệ hơn là chọn ngẫu nhiên.
Hầu như không có sinh viên của bất kỳ chuyên ngành nào thể hiện được sự
hiểu biết nhất quán về cách áp dụng các phương pháp đánh giá độ chính
xác mà họ đã học trong chuyên ngành của mình sang các lĩnh vực khác.
Theo cách đó, sinh viên có đặc điểm như các dân làng vùng sâu vùng xa
trong thí nghiệm của Luria – ngay cả những sinh viên chuyên ngành khoa
học cũng không thể khái quát hóa phương pháp nghiên cứu trong lĩnh vực
của họ cho những lĩnh vực khác. Flynn kết luận: “Không có dấu hiệu cho
thấy các khoa ở trường đại học cố gắng phát triển [điều gì đó] ngoài việc
tập trung vào chuyên môn.”
Flynn giờ đây đã trên 80 tuổi. Ông có hàm râu quai nón trắng, với gò
má dạn dày sương gió của một người chạy bộ lâu năm, và những lọn tóc
trắng bồng bềnh như những đám mây cuồn cuộn trên đầu. Nhà của ông
nằm trên một ngọn đồi của Dunedin nhìn ra một trang trại xanh uốn mình
thoai thoải.
Khi thuật lại quãng đời sinh viên của mình tại Đại học Chicago, nơi
ông là đội trưởng của đội việt dã, ông cất cao giọng. “Ngay cả những
trường đại học tốt nhất cũng không phát triển trí thông minh phản biện”,
ông ấy nói với tôi. “Họ không dạy sinh viên những công cụ cần thiết để
phân tích thế giới hiện đại, ngoại trừ lĩnh vực chuyên môn của họ. Nền giáo
dục của họ quá hạn hẹp.” Ông không có ý rằng đơn giản là mỗi sinh viên