Bà ngoại cậu bật ra một tiếng nghe như cười, cũng có thể là ho, hoặc là cả
hai.
“Bailey ơi, hãy đi theo những giấc mơ của con,” bà nói. “Có thể là
Harvard hay bất cứ gì khác. Bố con nói gì cũng mặc, lớn tiếng thế nào cũng
kệ. Bố con đã quên rằng chính mình từng là giấc mơ của một người khác.”
Bailey gật đầu, còn bà cậu quay lại ghế ngồi và ca cẩm về mấy người
hàng xóm, chẳng đả động gì đến bố cậu hay những giấc mơ của cậu nữa.
Nhưng trước khi Bailey về, bà dặn, “Đừng quên những điều ta đã nói.”
“Không đâu ạ,” cậu quả quyết.
Cậu không kể với bà rằng cậu chỉ có một giấc mơ, và giấc mơ ấy cũng
quái dị không kém nghiệp cướp biển ở trong vườn.
Nhưng Bailey vẫn kiên quyết và thường xuyên tranh luận với bố.
“Thế ý kiến của con không có giá trị gì ạ?” một tối cậu hỏi, trước khi câu
chuyện giữa hai bố con đi đến hồi sập cửa.
“Không, rõ là không,” bố cậu nói thẳng.
Mẹ lặng lẽ xoa dịu sau khi bố ra khỏi phòng, “Bailey à, thôi bỏ chuyện
này đi con.”
Bailey bắt đầu ra khỏi nhà rất nhiều.
Trường học không mất nhiều thời gian như cậu mong muốn. Ban đầu cậu
làm việc nhiều hơn, tại những vạt rau hay vườn quả ở xa, chọn những chỗ xa
nhất tránh đụng phải bố.
Rồi cậu kiếm cớ đi dạo, qua những cánh đồng, những khoảng rừng và
nghĩa trang.
Cậu lang thang qua mộ phần của các triết gia và thi sĩ, các tác giả những
cuốn sách cậu từng thấy trong thư phòng của bà. Và có vô vàn bia mộ khác
khắc những cái tên cậu không quen biết, và cả những bia mộ sương gió đã