tầng hầm. Khu phục vụ buồng phòng là một hành lang lớn đầy đồ vải lanh
và khăn các loại. Có hòm, rổ đựng đầy xà phòng tắm cùng các thứ đồ dùng
miễn phí ta vẫn thấy trong các buồng tắm. Các nhân viên buồng phòng đang
ra vào cùng xe đẩy dùng để dọn phòng. Ở gần góc hành lang có một ô ngồi
làm việc quây kính, một phụ nữ ngồi sau chiếc bàn nhỏ. Chúng tôi bước tới
gõ vào mặt kính. Cô nhìn lên. Roscoe rút phù hiệu ra.
'Tôi giúp gì được hai vị ?" người phụ nữ hỏi
'Phòng sáu-hai-một," Roscoe nói "Sáng thứ Bảy các cô đã chuyển ra
một số đồ dùng cá nhân. Các cô đã chuyển xuống đây chứ ?"
Tôi một lần nữa nín thở.
"Sáu-hai-một à ?" người phụ nữ hỏi lại. "Ông ấy đã tới lấy rồi. Chúng
được mang đi rồi."
"Ai tới ?" tôi hỏi. "Khi nào ?"
"Người khách ấy. Sáng nay, có lẽ lúc chín hay chín giờ rưỡi",
"Ông ấy là ai ?" tôi hỏi tiếp.
Người phụ nữ lôi một cuốn sổ nhỏ từ giá xuống và lấy ngón cái lật ra.
Liếm một ngón tay mập mạp chỉ vào một dòng.
"Joe Reacher," cô nói. "Ông ấy đã ký vào sổ và lấy đồ."
Cô xoay ngược cuốn sổ đẩy về phía chúng tôi. Ở dòng này có một
chữ ký nguệch ngoạc.
"Ông Reacher này trông thế nào ?" tôi hỏi.
Người phụ nữ nhún vai.
"Người nước ngoài. Kiểu người Mỹ Latinh. Có lẽ từ Cuba à ? Người
nhỏ da sẫm, dáng mảnh, cười duyên. Theo như tôi nhớ thì thuộc típ rất lịch
sự."
"Cô có danh sách kê các món đồ không ?"
Người phụ nữ lướt ngón tay múp míp theo hàng chữ. Có một cột nhỏ
đầy chữ viết tay sít vào nhau. Trong cột ghi một chiếc túi bằng vải dệt, tám
món quần áo, một túi đựng đồ vệ sinh cá nhân, bốn chiếc giày. Thứ cuối
cùng được liệt kê là một chiếc ca táp.
Chúng tôi rời khỏi ô quây kính theo cầu thang bộ trở lại sảnh. Bước
trở lại với mặt trời buổi sáng. Không còn chút cảm giác nào về một ngày
tuyệt vời nữa.