chó hụt hơi mũi dãi lòng thòng. Xiết bao tội ác tày đình xảy ra, đơn
thuần chỉ vì người gây ra nó không chịu nổi cái ý nghĩ cho rằng mình
lầm lỗi! Thuở xưa, tôi có quen biết một nhà doanh nghiệp nọ, ông có
một bà vợ quả thật vẹn toàn, ai ai cũng ngợi khen, vậy mà ông vẫn cứ
ruồng rẫy bà ta như thường. Ông tức lộn gan lộn ruột nhận thấy phần
lỗi cứ luôn về mình, không có cách nào được người đời hay tự mình
cấp phát cho mình một mảnh bằng đức hạnh. Bà vợ càng tỏ ra vẹn
toàn bao nhiêu, ông càng bầm gan tím ruột bấy nhiêu. Cuối cùng, ông
không còn chịu nổi chính lỗi lầm của mình nữa. Ngài đoán được bấy
giờ ông ta làm gì không? Thôi tỏ ra bạc bẽo chăng? Không, không.
Ông giết bỏ bà vợ. Tôi giao dịch với ông ta cũng là nhờ vậy.
Phần tôi thì ở vào một tình thế xán lạn hơn. Chẳng những tôi quyết
chắc không bị nhập vào phe những kẻ mang trọng tội (đặc biệt là tuyệt
nhiên không có cớ giết vợ, vốn sống độc thân), mà còn là kẻ bào chữa
cho họ nữa, với điều kiện duy nhứt là họ phải thuộc hạng thủ phạm tốt
cũng như có kẻ thuộc hạng mán mọi tốt vậy. Chính ngay cách thức tôi
bào chữa cho họ cũng mang đến cho tôi nhiều niềm vui thích nở lòng.
Đời sống nghề nghiệp của tôi quả tình là gương mẫu, không chỗ nào
chê trách được. Tôi không hề nhận của hối lộ đã đành, mà cũng không
hề hạ mình lòn cúi vận động lần nào. Một điều hiếm hoi hơn nữa, tôi
không hề chịu nịnh hót một ký giả nào ngõ hầu được hắn thuận theo
mình, hoặc một công chức cao cấp nào hòng lợi dụng thân tình của y.
Tôi cũng có cái diễm phước đôi ba lần được chánh phủ ký sắc lệnh
tuyên cho Bắc-đẩu bội-tinh, và đã có thể trang trọng chối từ một cách
kín đáo, lấy đó làm phần thưởng đích thật cho mình. Suốt, tôi không
hề đòi những thân chủ lâm cảnh nghèo cực trả tiền thù lao và cũng
không hề lớn tiếng rêu rao nghĩa cử này. Ngài chớ lầm tưởng rằng tôi
kể lể ra đây là để khoe khoang cùng ngài. Công trạng tôi hoàn toàn
chẳng có là bao: trong xã hội chúng ta ngày nay, máu tham được nâng
lên mức thay thế cho cao vọng, hằng không ngừng khiến tôi phì cười.