nghèo còn mắc nợ triền miên sau khi chôn cất người thân. Đó là một cuộc
cách mạng nho nhỏ đáng tự hào của ông nội đóng góp cho cuộc sống đất cù
lao, khiến ba tôi cảm thấy nên ở lại mảnh đất đó với tư cách con trai trưởng,
để dòng dõi được nối tiếp và bồi đắp quê hương.
Nhưng sức hút của Sài Gòn quá lớn đối với một người đàn ông sinh
trưởng ở vùng đất chỉ cách đô thị này chưa tới ba mươi cây số. Nói cho
cùng, Sài Gòn đã mang đến cho ông cuộc sống thoải mái hơn những ngày ở
Biên Hòa làm công việc đo đạc đất đai theo viên Kinh lý, hay lúc dạy học
trong làng luôn nơm nớp lo sợ vì không có giấy phép của nhà nước Tây.
Giấc mơ hồi hương của ông chỉ là những thoáng mơ qua như bao người
chọn nơi đây làm quê hương mới. Anh em chúng tôi sinh ra và lớn lên trên
đất Sài Gòn quê mẹ, gắn bó với thành phố này trong khi người cha sinh
thành mang tâm sự kẻ tha hương. Ba và chúng tôi đã khác nhau trong tâm
thức về một nơi gọi là quê hương.
Sau khi ông mất không lâu, tôi đọc lại tập Một cuốn sách Tuấn, chàng trai
nước Việt của Nguyễn Vỹ trong tủ sách gia đình để hiểu thêm về sức hút của
Sài Gòn, từ hơn bảy mươi năm trước. Đó là thời gian ba tôi mới lấy xong
bằng Sơ học Pháp Việt:
“Thỉnh thoảng đôi người đi Đồng Nai về khoe rùm lên rằng ở Sài gòn
nhà cửa phố xá đông nghẹt, có nhà lầu cao ba tầng, có đường đi rộng ba
thước, trên bộ xe hơi chạy “boong boong”, dưới nước tàu thủy chạy “vù
vù”, tối đến đèn điện thắp sáng choang như ban ngày, ông Tây bà Đầm ôm
nhau “đăng xê” coi vui mắt quá chừng!
Thật là văn minh quá sức tưởng tượng của dân An nam ta!
…
Một số đông phụ nữ trẻ đẹp nhưng buồn duyên tủi phận, giận mẹ chồng
hiếp đáp hoặc bị chồng hất hủi, thường “cuốn gói” đi “Đồng Nai Gia
Định” mặc dầu phải đi bộ. Rồi năm bảy năm sau trở về thăm bà con cô bác,
họ đeo đầy vòng vàng, hột xuyến, chói lọi trên tay trên ngực, má phấn môi
son, đầu tóc thơm ngát mùi nước hoa. Thường thường cô Hai hay cô Ba