107
Thiệu Trị đã làm ba bài thơ khắc vào bia đá dựng ở Cầu
Dài, nay đã bể, đem về bảo quản tại Nhà Bảo tàng lịch
sử của tỉnh. Lời thơ nhắc đến công khó của người xưa
mở mang đất nước, bài thứ ba có câu:
Bích huyết dư lưu quang Nhật Lệ,
Hoàng trần viên chứng nhiễm Đâu Mâu.
(Máu biếc chiếu lên, trôi theo sông Nhật Lệ,
Bụi vàng nhiễm phủ mạch (núi) Đâu Mâu...)
Nguyễn Tú, học giả ở Quảng Bình đã biên soạn tư
liệu “Đào Duy Từ với Lũy Thầy”, (Nhà xuất bản Lao
Động, Hà Nội, 1993) với nhiều chi tiết, luận cứ. Từ đầu
thế kỷ, cố Cadière đã bắt tay vào công trình biên khảo
về lũy Đồng Hới. Riêng về hai bức thư chữ Nôm giữa
Trịnh Tráng và chúa Sãi, tôi trích bài của ông Bửu Cầm
sưu tầm và chú giải đăng trên Văn Hóa nguyệt san (số
85, năm 1963, Sài Gòn).
Quảng Bình ở phía Bắc vĩ tuyến 17, đã hứng chịu những
vụ oanh tạc, bắn phá ác liệt của Mỹ. Phần lớn nhà cửa
đều chỉnh trang và xây dựng mới từ hơn mười năm qua.
Nguyễn Du đã làm bài thơ Độ Linh Giang (Qua đò
sông Gianh), ngậm ngùi mô tả:
Tam quân cựu bích phi hoàng diệp,
Bách chiến tàn hài ngoại lục vu...
Nguyễn Tú dịch là:
Lũy cổ ba quân tầng lá rụng,
Bãi hoang trăm trận đống xương vùi...