235
nguyên niên (1841). Làng Tân Duyệt đông, 82 dân đinh,
làng Tân Thuận 87 dân đinh, thành lập từ đời Gia Long.
Theo cơ chế xưa, người ăn ong (lấy mật và sáp trong
rừng tràm) thường tổ chức từng hộ (gọi là hộ sáp) gồm
50 thành viên chịu thuế hàng năm 2 ngàn quan. Người
Pháp bãi bỏ tổ chức ấy. Gạo của vùng Cà Mau dư ăn,
bán ra nước ngoài, thông qua tàu buôn của người Hải
Nam. Ghe đi biển đánh cá, ghe chở củi thì rất nhiều,
nhưng trong bộ sổ ghi có ba chiếc!”
Những cuộc khởi nghĩa ở phía Hậu Giang gồm đa
số là người của Thiên hộ Dương, gom về Thất Sơn, của
Thủ khoa Huân cũng gom về. Năm 1868 sau khi mất
Vĩnh Long, Đinh Sâm tập họp lực lượng nhỏ ở Tầm
Vu, ở Láng Hầm giết được cai tổng Nguyễn Văn Vinh,
nhưng bị đàn áp tan rã. Trần Văn Thành khởi nghĩa ở
Bảy Thưa, vùng Láng Linh, phía nam Thất Sơn, lợi
dụng địa thế thấp và trũng đã chống cự mãnh liệt trước
cuộc hành quân lớn của giặc, nghĩa quân gồm đa số
ở các tỉnh miền Tiền Giang gom về (1871). Ngô Viện
lập hệ phái Tứ Ân Hiếu Nghĩa ở núi Tượng (Ba Chúc)
gây lo lắng cho Pháp suốt đôi ba năm (1886-1887). Đỗ
Thừa Luông và Đỗ Thừa Tự, ở Lai Vung (nay thuộc
tỉnh Đồng Tháp), từ tả ngạn sông Hậu đến lập căn cứ
ở Tân Bằng, rạch Cái Tàu (Cà Mau), thành tích đáng
kể là giết được trung úy Escaynié và viên tri huyện
Phan Tử Long. Nguyễn Trung Trực, trong cơ quân của
Trương Định, từ Gò Công, Tân An đến Rạch Giá, đánh