hưởng bởi những yếu tố môi trường trong quá trình truyền tải thông tin. Ví dụ, đài phát thanh
có thể bị nhiễu tín hiệu, văn bản trình bày có thể thiếu tính mỹ thuật và khó đọc, trang web có
thể khó sử dụng vì quá phức tạp. Ngoài ra, còn có những vấn đề nhiễu thuộc về tâm lý. Người
gởi có thể sử dụng sai ngôn ngữ hình thể, hay thông điệp có thể mang tính hăm dọa thay vì
cung cấp thông tin. Rồi còn có sự nhiễu trong ngôn ngữ, vì chính bản thân ngôn ngữ cũng có
thể bị diễn giải sai.
Sau khi đã nhận được thông điệp, người nhận khi đó cần giải mã thông điệp để hiểu được nội
dung của nó. Lúc này, người nhận cũng phải vận dụng tất cả các điều kiện cá nhân của mình
vào việc giải mã thông điệp. Sau đó, thường sẽ xuất hiện một số động thái tiếp theo, có thể
mang một hàm ý nào đó cần được giải mã. Ví dụ, đó có thể chỉ là một lời công nhận đơn giản,
hay một sự phản đối bằng lời nói đối với ý tưởng được đề xuất, thêm vào đó là một cử chỉ bạo
lực. Hành động này chính là thông tin phản hồi mà người gửi tìm kiếm. Từ đó, người gửi có thể
điều chỉnh thông điệp hoặc cách truyền đạt của mình để nâng cao hiệu quả truyền thông khi
khởi đầu một vòng tròn khác. Ở mô hình này, đặc tính quan trọng nhất chính là mức độ bình
đẳng giữa người gửi và người nhận, và cả hai đều tham gia vào hoạt động mã hóa, giải mã và
diễn giải. Thực tế, một số ý kiến lại phê phán điểm này của mô hình, bởi nó thể hiện một cảm
giác bình đẳng giữa các bên tham gia quá trình truyền thông. Tuy nhiên, các quan sát đã cho
thấy điều này là không đúng, vẫn có những điểm khác biệt lớn trong động cơ, quyền lực, nguồn
lực và thời gian giữa các bên tham gia.
Những mô hình truyền thông gần đây hơn đã nhấn mạnh đến bản chất tuần hoàn của quy
trình này. Rogers và Kincaid
(*)
đã phát triển mô hình "hội tụ" (hình 5.2), trong đó những bên
tham gia truyền thông sẽ cho, nhận thông tin và khám phá sự hiểu biết của mình về thông tin
đó đến một điểm mà cả hai cũng hiểu như nhau (nhưng không cần phải hoàn chỉnh) và không
cần thiết phải trao đổi thêm điều gì khác.
Hình 5.2 - Mô hình truyền thông hội tụ.
Trên đây là những mô hình đặc biệt thích hợp với loại hình giao tiếp cá nhân trực tiếp, vốn là
những tình huống mà trong đó, người tham gia có thể dễ dàng kiểm tra mức độ thấu hiểu và
đạt được các phản hồi. Tuy nhiên, các mô hình trên sẽ trở nên kém thích hợp ở các trường hợp
giao tiếp truyền thông diễn ra giữa các tổ chức, tập thể nhóm, hay giữa các tổ chức và công
chúng được tiếp cận thông qua một đối tác thứ ba ví dụ như giới truyền thông. Bởi vì những
tình huống này tương đối có ít thông tin phản hồi hay giao tiếp cá nhân trực tiếp.
Truyền thông với các nhóm
Có một số mô hình có thể được sử dụng để mô tả quá trình truyền thông theo nhóm. Một
trong những mô hình được chấp nhận rộng rãi khác trong giới PR là "mô hình định hướng
chung"
(1)
. Mô hình này hoàn toàn có thể ứng dụng khi một tổ chức tham gia vào hoạt động đối
thoại thực sự: nghĩa là một tình huống truyền thông mang tính hai chiều, trong đó tổ chức sẵn
sàng thay đổi vị trí của mình cho phù hợp với nhóm công chúng. Mô hình này sẽ không thích
hợp nếu tổ chức chỉ đơn thuần muốn phổ biến thông tin đến công chúng hay triển khai các
hoạt động tuyên truyền. Trường hợp đó, mô hình truyền thông với cá nhân theo kiểu người
gởi - thông điệp - kênh truyền tải - người nhận mà chúng ta vừa bàn trên đây lại tỏ ra thích hợp
hơn.
Các đặc trưng cơ bản của mô hình này là tính chính xác, sự hiểu biết và đồng thuận. Mời bạn
xem ví dụ sau đây. Giả sử một công ty muốn xây dựng một nhà máy tái chế nhựa ở một thành
phố. Công ty nghĩ rằng họ có thể tạo thêm việc làm, kích thích nền kinh tế địa phương và phục
vụ sự nghiệp xanh đáng được biểu dương. Tuy nhiên, cư dân địa phương có thể xem dự án này
là nguyên nhân khiến cho xe tải sẽ chạy vào thành phố, dẫn đến ô nhiễm không khí và thiếu đất