cũng tạt qua nhà thăm người vợ trẻ. Năm 1948 mợ Sâm có mang thì năm
1949 Pháp mở cuộc tấn công đánh chiếm vùng đồng bằng hữu ngạn. Mợ
Sâm sinh đứa con trai đầu lòng trong hoàn cảnh vô cùng vất vả. Nhờ mẹ
cha họ hàng đùm bọc nên mới được an toàn. Câu Đức hoàn toàn mất liên
lạc với gia đình trong hậu địch. Mãi khi hoà bình về thăm nhà cậu mới biết
mình đã có con.
Cậu về Hà Nội công tác nhưng không sao đón được vợ con ra. Chính
sách hộ khẩu thời ấy rất cứng nhắc. Chỉ chồng theo vợ chứ vợ theo chồng
thì rất khó. Cậu lại không có nhà cửa ngoài thành phố, cứ giường cá nhân
cơm tập thể mà sống. Thêm nữa cậu lại là người gương mẫu nên chỉ trông
chờ chính sách Nhà nước lo cho, chứ không bao giờ tận dụng khẩu hiệu
"Nhất biết nhì quen, tam quyền tứ chế..." để đưa "lậu" vợ con ra Hà Nội.
Năm 1960 mợ sinh đứa con trai thứ hai. Nuôi đến ba tuổi thì lẫm chẫm
ngã xuống ao khi mẹ đi làm vắng. Nghe tin con chết cậu Đức vô cùng
thương tiếc, bực tức nhưng không dám trách ai. Mẹ đi làm công điểm phải
gửi con cho bà. Một đàn cháu nội ngoài bốn đứa chơi với nhau, bà còn phải
nuôi lợn chăn gà, việc nhà việc bếp. Nhãng đi một phút, đứa lớn mải chơi
bỏ quên đứa bé là xảy ra tai hoạ rồi!
Thằng Phúc con lớn của cậu mười hai tuổi học trường làng, nhưng
cũng phải rau cám cơm nước, chăn bò giúp đỡ mẹ. Mỗi năm lên một lớp
đấy nhưng không thực chất. Lên lớp vì là học trò ngoan, vì điểm hạnh
kiểm, vì chính sách con bộ đội chứ không phải vì học giỏi. Cậu Đức mỗi
lần về chủ nhật thì vội vàng, chớp nhoáng. Kiểm tra sách vở, điểm bài tập
của con thi tỏ ra thất vọng nhung thời gian quá ngắn cũng chẳng giúp nó
được gì. Còn mợ Sâm thì hết lời khen con ngoan ngoãn, thương mẹ kính
thày, yêu bạn, chăm chỉ lao động đoàn kết được với mọi người... Cậu cũng
thấy được an ủi phần nào. Thời nay người ta trọng đức hơn tài Chữ tài liền
với chữ tai một vần. Nó học kém thì sau này bổ túc, bồi dưỡng thêm.