phòng sẽ ở trước mặt mày, vì vậy mày có thể quan sát mọi người từ
đẳng sau, thay vì ngược lại.
Tôi xoay người và nhìn ra đằng sau như thể đang tìm người quen.
Có một gã người Nhật, tầm bốn mươi lăm tuổi, đang ngồi tận phía
cuối bên tay trái, gần một trong các lối ra. Những người ngồi cạnh gã
đều đang nói chuyện với nhau; gã rõ ràng chỉ có một mình. Gã mặc
một bộ com lê nhàu nhĩ, màu xanh nước biển đậm hay xám xám gì đó,
vừa với gã như một ý nghĩ nảy ra quá muộn, vẻ mặt gã thờ ơ, quá thờ
ơ theo cảm nhận của tôi. Đây là một đám đông bao gồm những kẻ mê
nhạc đầy nhiệt tình, ngồi thành từng đôi và bộ ba, háo hức chờ đợi
màn trình diễn. Gã Thờ Ơ có vẻ như đang cố giữ vẻ kín đáo. Tôi coi
gã như một “ứng viên” nặng kí.
Tôi quay sang hướng bên kia. Cũng chỗ ngồi ấy, cuối cùng bên
phải. Ba phụ nữ trẻ trông như nhân viên văn phòng đi chơi buổi tối.
Rõ ràng không có vấn đề gì ở đó.
Gã Thờ Ơ có thể quan sát tôi trong buổi biểu diễn, và tôi cần
tránh cái sai lầm về sự đơn độc đáng ngờ mà hắn đã phạm phải. Tôi
nói với những người ngồi xung quanh rằng tôi là bạn của Midori và
đến đây theo lời mời của cô ấy; họ bắt đầu hỏi han tôi, và chẳng mấy
chốc chúng tôi đã tán dóc với nhau như những người bạn lâu năm.
Một nữ nhân viên phục vụ đi qua và tôi gọi một chai
Cragganmore mười hai năm tuổi. Những người xung quanh tôi cũng
bắt chước. Tôi là một người bạn của Kawamura Midori, vì vậy dù thứ
tôi gọi là gì thì nó hẳn cũng rất tuyệt. Họ có lẽ còn không biết thứ họ
vừa gọi là scotch, vodka hay một loại bia mới.
Khi Midori và ban nhạc của cô ấy bước dọc theo lối đi sát mép
phòng, mọi người bắt đầu vỗ tay. Lại thêm một điều khác biệt với
Alfie: Ở đó, khi các nhạc công xuất hiện, căn phòng ngập tràn một sự
im lặng thành kính.
Midori ngồi vào chỗ của mình bên chiếc piano. Cô ấy mặc chiếc
quần jean màu xanh nhạt và một cái áo cánh nhung đen, cổ trễ và bó