sát, làn da cô ấy trắng lóa bên cạnh nó. Cô ấy cúi đầu về phía trước và
chạm tay lên những phím đàn, và khán giả trở nên im lặng, chờ đợi.
Cô ấy giữ nguyên tư thế đó một lúc, nhìn chằm chằm vào cây đàn
piano, và rồi bắt đầu.
Cô ấy bắt đầu một cách chậm rãi, với phần trình diễn đầy e lệ bản
“Brilliant Corners” của Thelonious Monk, nhưng nhìn chung cô ấy
chơi mạnh mẽ hơn ở Alfie, với nhiều trường đoạn phiêu linh, phóng
túng hơn, những nốt nhạc của cô ấy đôi lúc xung đột với tiếng bass và
tiếng trống, nhưng lại đạt tới một sự hòa hợp trong vẻ đối nghịch ấy.
Những đoạn riff
đầy giận dữ và được cô ấy kéo dài hơn, và khi cô ấy
quay lại với bản nhạc, những nốt nhạc lại trở nên ngọt ngào nhưng anh
vẫn có thể cảm nhận được một sự thất vọng ẩn chứa bên dưới.
Màn biểu diễn này diễn ra trong chín mươi phút, và tiếng nhạc cứ
luân phiên thay đổi, lúc thì du dương bay bổng như sương khói, lúc lại
buồn bã bi thương, rồi bỗng trở nên sôi nổi vui tươi, đánh tan sự u sầu.
Midori kết thúc bằng một đoạn riff điên cuồng, náo nhiệt, và khi nó
vừa dứt, tiếng vỗ tay vang lên như sấm. Midori đứng dậy để đón nhận
sự tán thưởng ấy, đầu khẽ cúi xuống. Tay trống và tay guitar bass cười
và lau mồ hôi trên mặt bằng khăn tay, và tiếng vỗ tay cứ kéo dài mãi.
Midori đã đưa khán giả đến nơi mà âm nhạc dẫn cô ấy đến, giúp họ
cảm nhận được những gì mà cô ấy cảm thấy khi chơi, và những tràng
vỗ tay ngập tràn lòng biết ơn thực sự. Khi cuối cùng chúng cũng lắng
xuống, Midori và nhóm nhạc rời sân khấu, và mọi người bắt đầu đứng
dậy và lục tục di chuyển.
Vài phút sau cô ấy lại xuất hiện và len đến bên cạnh tôi. Khuôn
mặt vẫn đỏ bừng sau màn biểu diễn. “Tôi đã nghĩ là tôi thấy anh ở
đây,” cô ấy nói, khẽ ngoảnh nhìn tôi qua vai. “Cảm ơn vì anh đã tới.”
“Cảm ơn cô vì đã mời tôi. Họ đã chờ tôi sẵn ở chỗ quầy bán vé.”
Cô ấy mỉm cười. “Nếu tôi không dặn họ, anh sẽ không được vào,
và anh không thể nghe rõ tiếng nhạc từ ngoài đường, đúng không?”