Có lẽ gã biết tôi đang nịnh gã, nhưng hẳn là gã vẫn còn có cảm
giác lâng lâng sau buổi biểu diễn nên chẳng thèm bận tâm. Hoặc là khi
nói tiếng Anh gã lại có một tính cách khác. Dù gì đi nữa, gã cũng trao
cho tôi một nụ cười nhẹ bẫng nhưng có vẻ chân thật và nói, “Cảm ơn
lời khen tặng. Hãy gọi tôi là Ken.”
“Và hãy gọi tôi là Midori,” Midori xen vào. “Giờ thì đi thôi,
trước khi tôi chết vì đói!”
Suốt chuyến đi bộ kéo dài mười phút đến Za Ribingu Baa, như
cách người địa phương gọi nó, chúng tôi tán gẫu về jazz và cách
chúng tôi khám phá ra nó. Mặc dù tôi lớn hơn người nhiều tuổi nhất
trong số họ cả chục tuổi, nhưng về mặt triết học mà nói chúng tôi đều
là những người theo chủ nghĩa thuần túy của trường phái Charlie
Parker/Bill Evans/Miles Davis, và có thể dễ dàng trò chuyện cùng
nhau.
Cứ chốc chốc tôi lại có cơ hội liếc ra đằng sau ở mỗi ngã rẽ. Vài
lần như vậy, tôi phát hiện Gã Thờ Ơ đang đi theo sau. Tôi không nghĩ
hắn sẽ hành động khi Midori đang đi cùng những người này, nếu hắn
có ý định làm hại cô ấy.
Trừ phi chúng liều mạng, dĩ nhiên, trong trường hợp đó chúng sẽ
chấp nhận mạo hiểm, thậm chí có thể hành động tùy tiện. Tai tôi tập
trung mãnh liệt vào những tiếng động đằng sau khi chúng tôi bước đi.
Living Bar công bố sự tồn tại của nó trong tầng hầm của tòa nhà
Scène Akira bằng một tấm biển hiệu giản dị trên cầu thang. Chúng tôi
bước xuống và đi qua cửa, được chào đón bởi một anh chàng trẻ tuổi
người Nhật để kiểu đầu đinh hợp mốt và mặc bộ com lê màu xanh hải
quân may khéo với ba trong bốn nút áo được cài lại. Midori, giống
như thủ lĩnh của nhóm, nói với anh ta rằng chúng tôi muốn một bàn
dành cho bốn người; anh ta trả lời “Kashikomari-mashita
” bằng thứ
tiếng Nhật lịch sự nhất và thì thầm vào một cái mic-rô nhỏ bên cạnh
máy đếm tiền. Lúc anh ta tháp tùng chúng tôi vào trong, một cái bàn