khoảng hai trăm người ngăn cách. Tôi biết y có vé tháng và sẽ không
cần tới chỗ máy bán vé tự động. Harry và tôi đã mua vé trước vì vậy
chúng tôi có thể đi theo y qua cửa soát vé luôn. Cũng không sợ nhân
viên nhà ga sẽ để ý này nọ. Vào giờ cao điểm, họ gần như bị tê liệt bởi
đám đông; anh có thể đưa ra bất cứ thứ gì, một cái thẻ bóng chày
chẳng hạn, và thản nhiên đi qua.
Đèn giao thông đổi màu, những đám đông cuốn vào nhau như
cảnh giao chiến trong một sử thi thời trung cổ. Một chiếc radar vô
hình, mà tôi tin là chỉ những cư dân Tokyo mới có, ngăn chặn những
va đụng ở giữa phố. Tôi quan sát Kawamura khi y băng chéo qua
đường để đi về phía nhà ga, và khéo léo đi theo y. Có năm người giữa
chúng tôi khi đi qua quầy soát vé. Lúc này tôi phải bám sát y. Nơi này
sẽ trở nên hỗn độn khi tàu vào ga: năm nghìn người đổ ra, năm nghìn
người đứng thành mười lăm hàng chờ đợi để lên tàu, ai cũng gắng
giành được vị trí tốt. Những người nước ngoài nào nghĩ rằng Nhật Bản
là một xã hội lịch sự chắc hẳn chưa bao giờ đi tàu Yamanote
cao điểm.
Dòng sông người tràn lên các bậc thang và sân ga, những âm
thanh và mùi của nhà ga dường như khuấy động thêm cảm giác hối hả
trong đám đông. Chúng tôi đang bơi ngược dòng với những người vừa
mới xuống tàu, và khi chúng tôi tới sân ga, những cánh cửa đang đóng
lại, kẹp vào những cái túi và một cái khuỷu tay thòi ra lạc lõng. Lúc
chúng tôi đi qua ki ốt ở khoảng giữa sân ga, toa cuối cùng đã băng qua
và một lát sau nó biến mất. Chuyến tàu tiếp theo sẽ tới trong hai phút
nữa.
Kawamura lê bước đến giữa sân ga. Tôi vẫn ở sau y nhưng không
đi theo nữa, để tránh bị y phát hiện. Y đang nhìn quanh quất sân ga,
nhưng cho dù trước đó y đã thấy tôi hay Harry, việc trông thấy chúng
tôi đợi tàu sẽ không làm y lo lắng. Một nửa số người đang đợi cũng
vừa mới đi trên phố Dogenzaka.