Anh có biết rằng các công ty xây dựng ở Nhật Bản được gọi là gumi
không?”
Gumi có nghĩa là “băng đảng”, hoặc “tổ chức” - cái tên mà các
băng nhóm yakuza đặt cho chúng. Gumi ban đầu là những nhóm người
bị buộc phải tha hương vì Thế chiến II, họ làm việc cho một ông trùm
băng đảng nào đó, và làm bất cứ công việc bẩn thỉu nào để có thể tồn
tại. Cuối cùng những băng đảng này biến thành yakuza ngày nay và
những công ty xây dựng.
“Tôi biết,” tôi nói.
“Vậy thì anh sẽ biết rằng, sau chiến tranh, có những cuộc chiến
giữa các công ty xây dựng lớn đến mức cảnh sát còn không dám can
thiệp. Một hệ thống đấu thầu gian lận được thiết lập để ngăn chặn
những cuộc chiến này. Hệ thống này vẫn tồn tại. Cha tôi chính là
người đã điều hành nó.”
Cô ấy bật cười. “Anh có nhớ sân bay quốc tế Kansai được xây
dựng ở Osaka năm 1994 không? Sân bay tốn mười bốn tỉ đô la, và ai
cũng muốn hưởng chút lợi lộc từ nó. Anh còn nhớ Takumi Masaru,
ông trùm yakuza của Yamaguchi Gumi, bị giết vào năm đó chứ? Đó là
vì hắn đã không chia sẻ đủ lợi nhuận của việc xây dựng sân bay. Bố
tôi đã hạ lệnh khử hắn để xoa dịu những ông trùm băng đảng khác.”
“Chúa ơi, Midori,” tôi khẽ nói. “Cha cô đã kể với cô những
chuyện này sao?”
“Khi ông ấy biết mình chẳng còn sống được bao lâu nữa. Ông ấy
cần thú tội.”
Tôi đợi cô ấy tiếp tục.
“Những tên yakuza xăm mình và đeo kính râm, những kẻ mà anh
nhìn thấy trong những khu vực tệ nạn của Shinjuku, chúng chỉ là công
cụ cho những người như cha tôi,” cô ấy nói, tiếp tục bước chầm chậm.
“Những người đó là một phần của hệ thống. Các chính trị gia bỏ phiếu
cho những công trình công cộng vô dụng mà nuôi sống các công ty
xây dựng. Các công ty xây dựng cho phép các chính trị gia dùng nhân