và một chai Mouton 1980 từ nhà hàng Canal House của khách sạn.
Còn một tiếng rảnh rỗi nữa trước khi tới Vanguard, tôi ghé qua Grand
Bar có vẻ ngoài cực kì ấn tượng, nơi không khí của những cái trần
cao, những ánh đèn ấm áp và những cái bàn kính màu đen cân đối
hoàn hảo bù đắp cho một bộ sưu tập rượu mạch nha nhạt nhẽo và tiếng
nhạc sàn đầy khó chịu. Tuy nhiên, không có gì phải phàn nàn với một
chai Macallan hai mươi lăm năm tuổi.
Tôi đi bộ khoảng một dặm từ khách sạn đến Vanguard. Trời lạnh,
và tôi thấy mừng vì đã mặc chiếc quần garbadine màu xám đậm, chiếc
áo cổ lọ giả ca sơ mia màu đen, và chiếc áo vét blazer màu xanh lính
thủy; Chiếc mũ nỉ mềm màu xám đậm mà tôi đang đội sùm sụp cũng
mang lại cho tôi chút ấm áp, trong khi vẫn che bớt phần nào khuôn
mặt tôi.
Tôi lấy vé lúc 12 giờ 35 phút, rồi tiếp tục đi dạo đến gần 1 giờ.
Tôi không muốn Midori hay ai khác trong nhóm tam tấu của cô ấy đi
ngang qua tôi ở cuối căn phòng hình nêm ấy trước khi buổi trình diễn
bắt đầu.
Tôi băng qua bên dưới mái hiên màu đỏ đặc trưng và biển hiệu
neon rồi bước vào qua cánh cửa gỗ gụ, chọn một chỗ ngồi ở một cái
bàn tròn nhỏ màu trắng ở phía cuối. Midori đã ngồi bên cây đàn piano,
mặc đồ đen như lần đầu tiên tôi thấy cô ấy. Thật dễ chịu khi được
ngắm cô ấy vào lúc này, âm thầm lặng lẽ, bị ngăn cách bởi một nỗi
buồn mà tôi biết cô ấy hẳn cũng đang mang trong lòng. Cô ấy thật
xinh đẹp, và điều đó khiến tôi đau xót.
Những ánh đèn mờ đi, tiếng rì rầm trò chuyện tắt dần, và Midori
đánh thức chiếc piano với một sự dữ đội, những ngón tay cô ấy lướt
hết tốc lực trên những phím đàn. Tôi chăm chú ngắm nhìn, cố gắng
giữ lại kí ức về cái cách cô ấy di chuyển đôi bàn tay và lắc lư thân
người, và những nét biểu cảm trên gương mặt cô ấy. Tôi biết tôi sẽ
mãi mãi nghe nhạc của cô ấy, nhưng đây sẽ là lần cuối cùng tôi được
xem cô ấy biểu diễn.