phê đen nhỏ đặc trưng của quán, được pha chế từ loại cà phê rang kĩ
nguyên chất nhất, và ngồi vuông góc với nhau, để cả hai đều có thể
nhìn thấy khu vườn.
“Cô sống ở Tokyo bao lâu rồi?” Tôi hỏi, khi chúng tôi đã yên vị.
“Thật ra tôi cứ đi đi về về ấy mà,” cô ấy nói, chậm rãi khuấy một
thìa đường trong tách cà phê đen. “Hồi nhỏ tôi có vài năm sống ở
nước ngoài, nhưng chủ yêu lớn lên ở Chiba, thành phố cạnh đây. Hồi
niên thiếu tôi thường xuyên đến Tokyo, cố gắng lẻn vào các câu lạc bộ
nhạc sống và nghe jazz. Sau đó tôi sang New York bốn năm, học ở
trường Julliard. Và cuối cùng lại trở về Tokyo. Còn anh?”
“Cũng như cô thôi - đi đi về về suốt cả cuộc đời.”
“Và anh học được cách gọi cà phê đúng giọng New York ở đâu
vậy?”
Tôi nhấp một ngụm chất lỏng đắng đót trước mặt và cân nhắc câu
trả lời. Tôi hiếm khi chia sẻ những chi tiết tiểu sử của mình. Những
việc tôi đã làm, và tiếp tục làm, đã nhuốm lên người tôi một vết nhơ,
như Jake Khùng từng nói, và, cho dù dấu vết đó là vô hình đối với
phần lớn thế giới rộng lớn ngoài kia, nhưng tôi luôn ý thức được sự
tồn tại của nó. Sự thân mật không còn là điều quen thuộc với tôi. Đôi
khi tôi nhận ra với một chút tiếc nuối rằng có lẽ nó không còn tồn tại
nữa.
Tôi không có mối quan hệ tình cảm thực thụ nào ở Nhật từ khi ẩn
mình trong bóng tối. Có vài cuộc hẹn hò hời hợt mà tôi đi gặp cho có
lệ. Tatsu, và vài người bạn khác mà tôi không còn gặp gỡ nữa, thi
thoảng cố gắng giới thiệu tôi với những người phụ nữ mà họ biết.
Nhưng những mối quan hệ ấy sẽ đi đến đâu, khi hai chủ đề nói rõ tôi
nhất lại là điều cấm kị, không thể đề cập tới? Thử tưởng tượng ra cuộc
đối thoại này xem: “Tôi từng phục vụ quân đội ở Việt Nam.” “Sao lại
thế được?” “Tôi mang trong mình nửa dòng máu Mỹ, cô thấy đấy, một
người lai.”